Cập nhật nội dung chi tiết về Vai Trò Của Kali Đối Với Cây Hoa Lan – Agriculture mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
VAI TRÒ CỦA KALI ĐỐI VỚI CÂY HOA LAN
Posted On December 30, 2018 at 1:58 pm by lovetadmin / Comments Off on VAI TRÒ CỦA KALI ĐỐI VỚI CÂY HOA LAN
🌺
I. KALI LÀ GÌ?
Kali là một trong 3 nguyên tố đa lượng thiết yếu nhất đối với cây trồng. Phân kali được ký hiệu là K, hàm lượng kali nguyên chất trong phân, được tính dưới dạng K2O và được ghi trên bao bì sản phẩm là % K2O. Phân kali phần lớn là các muối kali (KCL, K2SO4, KNO3, K2O, K2CO3, KHCO3 …) dùng làm phân bón cho cây trồng.
Ánh sáng kích thích sự hút kali của cây. Ban ngày cây hút kali mạnh và vận chuyển lên các bộ phận trên của cây, buổi tối ánh sáng yếu kali không được cây hút lên mà một phần kali còn được vận chuyển ngược xuống rễ cây và thoát ra ngoài. Hầu hết kali trong cây tồn tại dạng ion K+ kết hợp với các axit hữu cơ tạo nên các muối hòa tan, dễ dàng rút ra bằng nước.
🌺
II. TÁC DỤNG CỦA KALI
– Kali giúp tổng hợp đường bột, xellulo, hoa tăng màu sắc tươi bóng hơn.
Bên cạnh đó Kali rất quan trọng đối với cây trồng trong giai đoạn ra trái, giúp trái lớn hơn, hàm lượng đường tăng, màu sắc tươi hơn.
– Kali làm cho cây cứng chắc, ít đổ ngã, tăng cường khả năng chịu úng, chịu hạn, chịu rét, chống chịu sâu bệnh.
– Thời tiết khô hạn, cây thiếu nước, bón Kali giúp giảm quá trình thoát hơi nước của cây qua bề mặt lá qua cơ chế đóng lỗ khí, giúp cây tránh rơi vào tình trạng kiệt nước.
– Kali có vai trò chủ yếu trong việc chuyển hoá năng lượng trong quá trình đồng hoá các chất trong cây, tăng cường vận chuyển dinh dưỡng. Kali giúp tăng cường quá trình quang hợp, hoạt hóa enzyme, hoạt hóa hoạt động của khí khổng, tổng hợp protein, đẩy nhanh quá trình vận chuyển hydrat carbon tổng hợp được từ lá sang các bộ phận khác.
🌺
III. TÁC HẠI KHI THIẾU KALI
– Lá hẹp, ngắn, xuất hiện các chấm đỏ, lá dễ héo rũ và khô, mép lá nhạt dần và có gợn sóng. – Cây mềm yếu, yểu lả, dễ bị lụi, gãy đổ, dễ bị sâu bệnh tấn công.
– Cây sẽ chậm ra hoa, hoa nhỏ, màu sắc không tươi và dễ bị dập nát. (hoa kém sắc, củ quả kém ngọt)
– Thiếu Kali sẽ giảm khả năng chống chịu của cây với điều kiện bất thuận (hạn, rét) cũng như tính kháng sâu bệnh.
🌺
IV. TÁC HẠI KHI THỪA KALI
– Thừa Kali sẽ tác động xấu lên rễ cây làm cây teo rễ.
– Thân, lá không mỡ màng, lá nhỏ.
– Thừa Kali dễ dẫn đến thiếu Magiê và Canxi.
🌺
V. CÁC LOẠI PHÂN BÓN KALI
– KCl: hay gọi là Kali đỏ, tuy nhiên thực tế mỏ Kali Clorua còn có dạng màu trắng, ví dụ nguồn Kali ở Lào, Canada,.. KCl là loại duy nhất có thể được khai thác từ mỏ trong các loại phân bón Kali… Đây cũng là loại phân bón Kali ưa dùng nhất của nông dân vì giá thành rẻ.
Trong thành phần KCl có chứa 50% K và 46% Cl. Điều đáng lưu ý ở đây là Cl không phải là nguyên tố dinh dưỡng có ích cho cây, ngược lại bón phân bón có chứa Cl trong thời gian dài làm đất bị mặn, ảnh hưởng nhanh nhất ở các vùng đất cát.
– KNO3 hay còn lại là Kali Nitrate, ngoài thành phần 38% Kali, trong KNO3 còn có 13% N (đạm), đạm là nguyên tố đa lượng, có vai trò quan trọng trong giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng của cây nên phù hợp sử dụng trên một số rau ăn lá hoặc giai đoạn đầu của cây ăn quả. Tuy nhiên trong thời kỳ cây ra hoa và kết quả, cây chuyển sang giai đoạn sinh trưởng sinh thực nên cây ít có nhu cầu đạm. Vì thế, khi bón KNO3 trong giai đoạn này lại kích thích quá trình sinh trưởng sinh dưỡng (đâm chồi, nuôi lá, thân, cành,…) và kiềm hãm sự phát triển hoa và quả, làm giảm năng suất.
– K2SO4: Nhìn thấy những bất lợi và tác hại của KCl đối với cây trồng, các nhà khoa học đã tìm cách tách chiết gốc Cl- và thay thế bằng gốc SO42- và tạo thành phân bón K2SO4. Ngoài thành phần là 41% K, K2SO4 còn có chứa 18% S là một nguyên tố trung lượng, đóng vai trò trong quá trình định hình chất diệp lục và là thành phần của protein của cây trồng. Đây là loại phân bón Kali được xem là hiệu quả nhất để tăng năng suất cho cây so với các loại phân bón khác. Lượng Cl luôn được kiểm soát tối thiểu, không gây hại cho đất và cây trồng. Nếu so sánh với KNO3, K2SO4 sử dụng hiệu quả hơn về mặt chi phí (giá thành thấp hơn KNO3 từ 10.000 – 20.000đ/kg) và mang lại hiệu quả cao hơn trong giai đoạn cây trồng ra hoa và tạo quả.
– MKP: có chứa 28 – 29% Kali và 22.7% Phospho (lân), sử dụng rất tốt trong giai đoạn trước khi ra hoa đến khi tạo quả vì lân thúc đẩy sự hình thành hoa. Tuy nhiên, giá thành cũng khá cao giống như phân bón KNO3.
– Phân bón NPK: Không khuyến khích sử dụng phân bón này vì thành phần Kali trong phân bón NPK thường được sản xuất từ 2 nguồn: KCl và K2SO4.
Tuy nhiên, chúng ta không thể nào biết nhà sản xuất đã sử dụng nguồn Kali nào để phối trộn và họ cũng không bao giờ đề cập trên nhãn mác hay bao bì, và phần lớn nhà sản xuất thường sử dụng nguồn KCl để tiết giảm chi phí, giá thành. Tuy nhiên, tác hại của Clo đã giải thích ở phía trên.
– Kali từ tro: Tro cây quýt có đến 30% K2O, đay 31%, rơm rạ 2-4%K2O. Kali trong tro dễ tan có tính kiềm và có lợi cho đất chua. Hàm lượng. lân, magiê và vi lượng trong tro cũng khá. Tro rơm rạ lúa, lượng silic rất cao cho nên tro cũng còn có thể xem là loại phân silic, phân lân, phân magiê và phân vi lượng
P/s: Tiện chú thích thêm:
– Các nguyên tố đa lượng gồm: N, P, K (Nitơ, Phospho, Kali).
– Các nguyên tố trung lượng gồm: Ca, Mg, S (Canxi, Magie, Lưu Huỳnh).
– Các nguyên tố vi lượng gồm: B, Cl, Cu, Fe, Mn, Mo, Zn (Bo, Clo, Đồng, Sắt, Mangan, Molipden, Kẽm).
(N)
(N)
Đạmtính bằng % Nitơnguyên chất. Lân (P) tính bằng % oxyt phospho (P2O5). Kali tính bằng % oxyt kali (K2O). Lưu Huỳnh tính bằng % lưu huỳnh nguyên chất (S), Canxi tính bằng % oxyt canxi (CaO), Magie tính bằng % oxyt magie (MgO).
Nguồn: Tạp chí hoa lan Việt Nam
Share on Facebook
Share
Share on Twitter
Tweet
Share on Pinterest
Share
Vai Trò Của Silic Đối Với Cây Trồng
Vai Trò Của Silic Đối Với Cây Trồng
Vai Trò Của Silic Đối Với Cây Trồng
1. Silic Trong Cây Trồng
Tất cả các loại cây trồng đặc biệt là cây hòa thảo đều chứa Silic, đây cũng là nguyên tố cao nhất trong các yếu tố gần gấp 3 lần kali ( kali là nguyên tố cao thứ 2 )
Cây trồng kể cả cây non cũng có thể lấy được Silic trong đất dưới dạng ion SiO32- ( hàm lượng dinh dưỡng được tính quy đổi ra % SiO2).
Rễ sau khi hấp thu Silic sẽ được vận chuyển và tích tụ ở nhiều vị trí trên cây như:
Ở xylem (mạch gỗ) và thành tế bào xylem giúp ngăn cản sự sụp đổ khi hô hấp tăng.
Ở dọc trục rễ và thành trong của biểu bì (endodermis), hoạt động như một cơ chế rào cản rất hiệu quả chống lại sự xâm nhiễm vào trụ giữa của cây do tác nhân bệnh và thực vật ký sinh.
Ở chồi, lá và thành tế bào biểu bì lá sự phân phối Silic phụ thuộc vào tỉ lệ thoát hơi nước của cây và tích tụ sau khi thoát hơi nước ở giai đoạn cuối giúp chống lại sự mất nước do thoát hơi nước qua lớp cutin và sự xâm nhiễm của nấm.
2. Vai Trò Của Silic Đối Với Cây Trồng
– Cây trồng đáp ứng với Si quan trọng nhất là lúa, có mối tương quan chặt giữa hàm lượng Si trong rơm rạ với năng suất lúa (Park, 1979 – trích dẫn bởi Mengel và Kirkby, 1987), hiệu lực của Si đối với bội thu năng suất hạt lúa rất rõ (Nagabovanalli và công sự, 2002). Hơn nữa, Si cũng có tác dụng tốt lên các yếu tố cấu thành năng suất như số bông, số hạt/bông và % hạt chắc. Silic đặc biệt kích thích sự tái tạo các cơ quan của cây lúa (Mengel và Kirkby, 1987).
Silic giúp cho lá mọc vươn thẳng, tạo điều kiện cho cây hấp thu ánh sáng tốt hơn, tăng khả năng quang hợp và tăng hiệu lực
của
phân nitơ.
Tác dụng tương hỗ giữa silic với photpho giúp cây hấp thu dinh dưỡng tốt hơn, cây tăng trưởng nhanh làm pha loãng nồng độ sắt, nhôm trong cây do đó làm tăng khả năng chống chịu phèn cho cây.
Làm tăng khả năng oxy hóa của rễ lúa làm giảm tác hại do hút quá nhiều sắt và mangan.
Cần cho sự tạo thành diệp lục, cần thiết cho quang hợp.
Làm cho cây cứng
hơn,
chống được đ
ổ ngã do mưa gió
.
Như vậy silic có tác dụng chủ yếu đến tính chống chịu: thiếu ánh sáng, thiếu nước, nhiệt độ cao và sâu bệnh hại.
Hiệu quả của bón Silic cho cây trồng chưa nhiều nhưng kết quả ban đầu cho thấy đối với một số cây như thuốc lá, dưa chuột, ngô và lúa đặc biệt là lúa đồi, lúa mì, lúa mạch cao lương bón Silic lợi nhiều mặt và tăng năng suất.
Vì số lượng silic trong đất cao cho nên định lượng silic trong đất không ích lợi cho việc xác định nhu cầu cần bón.
3. Nguồn Cung Cấp Silic
Silic được sử dụng trong nông nghiệp có từ 2 nguồn:
Trong tự nhên: hàm lượng Silic trong rơm rạ, vỏ trấu, bã cây mía, vỏ dừa khá cao, nếu khai thác chế biến hợp lý cũng làm tăng hiệu lực của Si và nâng cao hiệu quả của phân hữu cơ – Khoáng (có chứa Si hữu hiệu cao).
Phân hóa học:
+ Lân nung chảy: 24 – 32% SiO2.
+ Thủy tinh lỏng Na2SiO3: 25 – 27% SiO2.
+ Sodium Silicate Pentahydrate: 28.5 ± 1.0% SiO2.
+ Silico photphat canxi: 10 – 11% SiO2.
+ Xỉ lò cao: 30 – 40% SiO2.
+ Quặng Secpentine: 40-48% SiO2.
Vai Trò Của Phân Hóa Học Đối Với Cây Trồng
Vai trò của phân hóa học đối với cây trồng
1. Vai trò của phân hoá học đối với năng suất lúa ở Việt Nam và một số nước trên thế giới Cây trồng cũng như con gia súc, tôm, cá… muốn sinh trưởng tốt, khoẻ mạnh tăng trọng nhanh và cho năng suất cao cần phải được nuôi dưỡng trong điều kiện đầy đủ thức ăn, có đủ các chất bổ dưỡng theo thành phần và tỷ lệ phù hợp. Trẻ con tuy lúc mới sinh có cơ thể to, nặng cân nhưng nếu sữa mẹ kém chất, nuôi nấng thiếu khoa học thì cũng có thể trở nên còi cọc. Đối với cây trồng, nguồn dinh dưỡng đó chính là các chất khoáng có chứa trong đất, trong phân hoá học (còn gọi là phân khoáng) và các loại phân khác. Trong các loại phân thì phân hoá học có chứa nồng độ các chất khoáng cao hơn cả. Từ ngày có kỹ nghệ phân hoá học ra đời, năng suất cây trồng trên thế giới cũng như ở nước ta ngày càng được tăng lên rõ rệt. Ví dụ chỉ tính từ năm 1960 đến 1997, năng suất và sản lượng lúa trên thế giới đã thay đổi theo tỷ lệ thuận với số lượng phân hoá học đã được sử dụng (NPK, trung, vi lượng ) bón cho lúa. Trong những thập kỷ cuối thế kỷ 20 (từ 1960-1997), diện tích trồng lúa toàn thế giới chỉ tăng có 23,6% nhưng năng suất lúa đã tăng 108% và sản lượng lúa tăng lên 164,4%, tương ứng với mức sử dụng phân hoá học tăng lên là 242%. Nhờ vậy đã góp phần vào việc ổn định lương thực trên thế giới. Ở nước ta, do chiến tranh kéo dài, công nghiệp sản xuất phân hoá học phát triển rất chậm và thiết bị còn rất lạc hậu. Chỉ đến sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng, nông dân mới có điều kiện sử dụng phân hoá học bón cho cây trồng ngày một nhiều hơn. Ví dụ năm 1974/1976 bình quân lượng phân hoá học (NPK) bón cho 1 ha canh tác mới chỉ có 43,3 kg/ha. Năm 1993-1994 sau khi cánh cửa sản xuất nông nghiệp được mở rộng, lượng phân hoá học do nông dân sử dụng đã tăng lên đến 279 kg/ha canh tác. Số lượng phân hoá học bón vào đã trở thành nhân tố quyết định làm tăng năng suất và sản lượng cây trồng lên rất rõ, đặc biệt là cây lúa. Rõ ràng năng suất cây trồng phụ thuộc rất chặt chẽ với lượng phân hoá học bón vào. Tuy nhiên không phải cứ bón nhiều phân hoá học thì năng suất cây trồng cứ tăng lên mãi. Cây cối cũng như con người phải được nuôi đủ chất, đúng cách và cân bằng dinh dưỡng thì cây mới tốt, năng suất mới cao và ổn định được. Vì vậy phân chuyên dùng ra đời là để giúp người trồng cây sử dụng phân bón được tiện lợi hơn. 2. Tình hình sử dụng phân hoá học (phân khoáng) của một số nước trên thế giới và khu vực Đông Nam Á Từ lâu nông dân ta đã có câu “người đẹp nhờ lụa, lúa tốt nhờ phân”. Phân bón đã là một trong những nhân tố chính làm tăng năng suất cây trồng để nuôi sống nhân loại trên thế giới. Tuy nhiên, nhiều nước không có công nghệ sản xuất phân bón, nhưng ngoại tệ lại có hạn nên việc sử dụng phân khoáng ở các nước có sự chênh lệch khá lớn. Sự chênh lệch này không phải do tính chất đất đai khác nhau quyết định mà chủ yếu là do điều kiện tài chánh cũng như trình độ hiểu biết về khoa học dinh dưỡng cho cây trồng quyết định. Còn trong các nước phát triển mức độ sử dụng phân khoáng khác nhau là do họ sử dụng cây trồng khác nhau, điều kiện khí hậu khác nhau, cơ cấu cây trồng khác nhau và họ cũng sử dụng các chủng loại phân khác nhau để bón bổ sung. Các số liệu khảo sát cho thấy, bình quân các nước châu Á sử dụng phân khoáng nhiều hơn bình quân thế giới. Tuy nhiên, Ấn Độ (nước có khí hậu nóng) lại dùng phân khoáng ít hơn bình quân toàn châu Á. Trong lúc đó Trung Quốc và Nhật lại sử dụng phân khoáng nhiều hơn bình quân toàn châu Á. Hà Lan là nước sử dụng phân khoáng nhiều nhất. Tuy nhiên lượng phân chủ yếu bón nhiều cho đồng cỏ, rau và hoa để thu sản lượng chất xanh cao. Việt Nam được coi là nước sử dụng nhiều phân khoáng trong số các nước ở Đông Nam Á, số liệu tham khảo năm 1999 như sau: – Việt Nam: bình quân 241,82 kg NPK/ha – Malaysia: bình quân 192,60 – Thái Lan: bình quân 95,83 – Philippin: bình quân 65,62 – Indonesia: bình quân 63,0 – Myanma: bình quân 14,93 – Lào: bình quân 4,50 – Campuchia: bình quân 1,49 Theo số liệu ghi nhận được ở trên cho thấy Campuchia, Lào và Myanma sử dụng phân khoáng ít nhất, đặc biệt là Campuchia. Có thể đó là thị trường xuất khẩu phân bón của Việt Nam khá thuận lợi, nếu Việt Nam góp phần nâng cao kiến thức sử dụng phân bón cho họ có kết quả. 3. Nhu cầu phân bón đối với cây trồng của Việt Nam đến năm 2010 Tính nhu cầu phân bón cho cây trồng là dựa trên cơ sở đặc điểm của đất đai, đặc điểm của cây trồng để tính số lượng phân cần cung cấp làm cho cây trồng có thể đạt được năng suất tối ưu (năng suất cao nhưng hiệu quả kinh tế cũng cao). Cho đến năm 2010, ước tính tổng diện tích gieo trồng ở nước ta vào khoảng 12.285.500 ha, trong đó cây có thời gian sinh trưởng hàng năm là 9.855.500 ha và cây lâu năm khoảng 2.431.000 ha (Theo số liệu của Vũ Năng Dũng, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, 2002). Để thoả mãn nhu cầu phân bón cho các loại cây trồng trên các diện tích này, đến năm 2010 ta cần có 2.100.000 tấn phân Urê, 300.000 tấn phân DAP, 3.000.000 tấn phân NPK các loại, 1.400.000 tấn phân lân dạng super và nung chảy và 400.000 tấn phân Kali (Nguyễn Văn Bộ, 2002). Dự kiến cho đến thời gian ấy ta có thể sản xuất được khoảng 1.600.000 tấn phân Urê, 300.000 tấn phân DAP, 3.000.000 tấn phân NPK và 1.400.000 tấn phân lân các loại. Số phân đạm và DAP sản xuất được là nhờ vào kế hoạch nâng cấp nhà máy phân đạm Bắc Giang, xây dựng 2 cụm chế biến phân đạm ở Bà Rịa-Vũng Tàu và ở Cà Mau mà có. Nếu được như vậy lúc đó ta chỉ còn phải nhập thêm khoảng 500.000 tấn Urê và 300.000 tấn phân Kali nữa là tạm đủ. Chỉ còn khoảng 6 năm nữa là đến năm 2010, tổng khối lượng phân các loại cần có là 7,1 triệu tấn, một khối lượng phân khá lớn, trong lúc đó, hiện nay (năm 2003) ta mới sản xuất được khoảng 1,5 triệu tấn phân đạm và lân. Còn số lượng 1,2 triệu tấn phân NPK có được là nhờ vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập. Năm 2002, cả nước nhập khẩu 2.833.907 tấn phân các loại (Urê, DAP, Kali, sunphát đạm). Nếu tính cả số phân nhập bằng con đường tiểu ngạch thì năm 2002 số lượng phân nhập có khoảng 3 triệu tấn, nếu cộng thêm 1,5 triệu tấn sản xuất trong nước thì vẫn còn cần thêm 2,6 triệu tấn phân các loại nữa mới đáp ứng được yêu cầu sản xuất nông nghiệp. Công ty Phân bón Bình Điền đang chuẩn bị xây dựng thêm 1 nhà máy sản xuất phân bón ở tỉnh Long An với công suất 600.000 tấn phân NPK/năm, lúc đó Công ty có thể cung cấp được khoảng 1/3 lượng phân NPK theo yêu cầu đặt ra. Như vậy cho đến nay, số lượng phân hoá học dùng cho sản xuất nông nghiệp phần lớn là dựa vào nhập khẩu. Nếu việc nâng cấp nhà máy phân đạm Bắc Giang cũng như việc xây dựng 2 cụm chế biến phân đạm ở Bà Rịa-Vũng Tàu và Cà Mau thực hiện đúng theo kế hoạch thì đến năm 2010 ta chỉ còn nhập khối lượng phân không nhiều lắm. Ngược lại, nếu kế hoạch trên có trở ngại thì việc tiếp tục nhập phân hoá học với khối lượng lớn là điều tất yếu. Tuy nhiên để việc sử dụng phân bón có hiệu quả, không có dư lượng đạm quá mức cho phép, không gây ô nhiễm môi trường thì ngay bây giờ ta phải trang bị cho người sản xuất những kiến thức khoa học cần thiết về tính chất 2 mặt của phân bón, biết được nhu cầu phân bón của từng loại cây, từng giai đoạn sinh trưởng của cây trên từng loại đất, từng mùa vụ để họ từ quản lý lấy nguồn tài nguyên quí giá của họ mới có hiệu quả được.
Vai Trò Của Phân Bón Trung Vi Lượng Đối Với Cây Trồng
Đây là loại phân bón được sản xuất từ các nguyên tố trong nhóm trung vi lượng cung cấp các chất khoáng cần thiết cho cây trồng trong thời gian sinh trưởng, chúng bao gồm những nguyên tốt đó là Canxi, Magie, lưu huỳnh và Silic, vụ thể vai trò của các nguyên tố này đối với cây trồng đó là:
Can xi (Ca): Canxi là nguyên tố cần thiết giúp thúc đẩy quá trình phân chia tế bào giúp quá trình sinh trưởng cây phát triển mạnh hơn. Bên cạnh đó canxi có tính kiềm đóng vai trò giải động cho cây bằng việc trung hòa các chất axit hữu cơ có trong đất, tăng cường khả năng hút đạm và chống lại một số loại sâu bệnh. Khi trồng cây ở những môi trường đất chua, đất kiềm, đất đồi thường thiếu canxi cần phải bổ sung chứng trong quá trình cây trồng sinh trưởng.
Magie (Mg): Magie là thành phần của chất tạo màu xanh cho lá cây hay còn gọi là diệp lục chúng giúp cây hút lân và chất dinh dưỡng dễ dàng hơn, đồng thời giúp cho việc vận chuyển các chất trong cây được diễn ra nhanh hơn. Những môi trường đất thường xuyên sử dụng các loại phân bón kali hay supephotphat nhiều năm khiến cho đất thiếu hụt đi nguyên tố Mg chính vì vậy để tránh hiện tượng cây còi cọc, chậm lớn cần phải bổ sung Mg cho môi trường đất.
Lưu huỳnh (S): Lưu huỳnh là thành phần của các axit amin tạo mùi thơm, protein, vitamin B8, B1… có ý nghĩa quyết định rất lớn trong việc nâng cao chất lượng nông sản và tăng mùi thơm cho các loại cây như café, cây ăn quả, đậu phộng…
Silic (S): Si linh khi cung cấp cho cây sẽ giúp cho mạch của cây được bó lại, giúp cây cứng cáp hơn, chống đổ ngã, cây đứng thẳng giúp tăng diện tích quang hợp cho cây trồng, giúp cây chống chịu khô hạn được tốt hơn, giảm tích lũy các chất độc do kim loại nặng gây ra, hấp thụ chất dinh dưỡng, chống chịu lại đất nhiễm mặn, ngộ độc hữu cơ. Đặc biệt đối với những sản phẩm như lúa gạo phân bón trung vi lượng giúp cho năng suất được cao hơn.
Phân bón trung vi lượng mang lại hiệu quả sử dụng là vậy tuy nhiên để phát huy chúng các bạn cần phải lựa chọn được những sản phẩm chất lượng. Funo là đơn vị chuyên cung cấp những sản phẩm phân bón chất lượng cung cấp các chất hữu cơ, NPK, phức hợp, vi lượng, bảo vệ thực vật cho cây trồng chúng tôi cung cấp cho khách hàng những sản phẩm phân bón lá vi lượng có chất lượng tốt, đảm bảo chất lượng, đáp ứng đủ các thành phần mà phân bón trung vi lượng mang lại.
Khách hàng khi đến với Funo sẽ được các nhân viên bán hàng tư vấn chi tiết về tính chất của phân bón trung vi lượng, hiệu quả và cách sử dụng chúng giúp suốt cây trồng trong suốt quá trình trồng trọt được khỏe mạnh, mang lại năng suất cao.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Vai Trò Của Kali Đối Với Cây Hoa Lan – Agriculture trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!