Top 3 # Xem Nhiều Nhất Vuon Dia Lan Nam Dinh Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Vitagrowthheight.com

Hoa Dia Lan Chính Hãng, Ưu Đãi Tốt Nhất, Giá Rẻ Nhất Tháng 09

“Ly cốc giấy được ra đời bởi lý do ngăn ngừa các bệnh lây nhiễm do sử dụng chung cốc uống nước. Đã từ rất lâu tại các nước phát triển cốc giấy đã được sử dụng thay thế cốc nhựa. Với nhiệt độ bình thường cả ly nhựa và ly giấy đều có tác dụng như nhau là chứa nước uống, và dễ dàng mang đi, ngoài ra cả hai đều có nắp đậy để tránh việc đổ, tràn nước uống ra ngoài.– Cốc giấy dùng một lần 205ml được làm bằng chất liệu bột giấy không độc hại, an toàn khi sử dụng.– Sản phẩm gồm 20 chiếc cốc giấy có thiết kế nhỏ gọn, xinh xắn, màu sắc trang nhã với họa tiết chấm bi sinh động. Mỗi chiếc cốc có thể tích 205ml, không bị thấm nước, có khả năng chịu được nhiệt độ cao.– Cốc giấy dùng một lần 205ml là sản phẩm rất tiện dụng khi tổ chức tiệc hoặc mang theo trong các chuyến đi chơi xa, thích hợp đựng nhiều loại nước uống như: trà, cà phê, nước trái cây… Bạn có thể dùng ly giấy cho các buổi tiệc sinh nhật, họp mặt hay những chuyến dã ngoại, cắm trại… vừa hợp vệ sinh vừa giúp tiết kiệm chi phí và thời gian, công sức chùi rửa ly sau mỗi lần sử dụng.– Cốc là sản phẩm dùng một lần, dễ dàng tiêu hủy sau khi sử dụng. Sản phẩm thân thiện với môi trường.Ngoài ra ly giấy cao cấp dùng một lần còn có thể tái sử dụng để làm các vật trang trí độc đáo mà bất cứ ai nhìn thấy cũng phải thốt lên tuyệt đẹp. Các bạn trẻ hiện nay còn có thể kiếm thêm thu nhập từ các sản phẩm làm từ đồ handmade, qua việc đó giúp giảm lượng rác thải ra môi trường.”

Lan Rừng Miền Nam Việt Nam

Theo Helmut Bechtel (1982), hiện nay trên thế giới có hơn 700 giống lan rừng gồm 25.000 loài được xác định, chưa kể một số lượng khổng lồ lan lai không thể thống kê chính xác số lượng.

Lan rừng phân bố trên thế giới gồm 5 khu vực:

– Châu Á nhiệt đới gồm các giông Bulbophylium, Calanthe, Coelogyne, Cymbidium, Dendrobium, Paphiopedilum, Phaius, Vanda, Phalaenopsis.

– Châu Mỹ nhiệt đới gồm các giống Brassavola, brassia, Catasetụm. Cattleya, Cynoches, Pleurothailiis, Stanhopea, Zygopetalum.

– Châu Phi gồm các giống Lissochius, Polystachiya, Ansellia, Disa

– Châu Úc gồm các giống Bulbophyllum, Calanthe, Cymbidium, Dendrobium, Eria, Phaius, Pholidota, Sarchochiius, Spatìioglottis. Riêng Tân Ghi nê trên 2.500 loài trong đó phần nhiều là Dendrobium và Bubophyllum.

– Vùng ôn đới của châu âu, Bắc Mỹ và Đống Bắc á châu gồm các giống Cypripedium. Orchis, Spiranthes.

Việt Nam là một nước Đông Nam Á nằm trong khu vực cháu Á nhiệt đới, là một trong hai khu vực tập trung nhiều lan đẹp nhất trên thế giới: châu Á và Nam Mỹ

Theo Phạm Hoàng Hộ (1993) lan rừng Việt Nam được biết gồm hơn 750 loài khác nhau, phần giới thiệu sau đây chỉ tập trung vào một số loài lan có hoa đẹp, trữ lượng nhiều, có triển vọng kinh doanh trong lĩnh vực thương mại trong tương lai.

Mỗi loài lan rừng đều yêu cầu một điều kiện sinh thái nhất định, ngoại trừ một vài loài lan có khá năng thích nghi biên độ khí hậu rộng. Thường mỗi loài dều cự ngụ tại nguyên quán thích hợp. Các nhà săn lan nhận thây rằng các vùng ven suối vùng trũng, trong rừng sâu mật độ lan cao hơn và mất hẳn khi gần trảng trống, Tuy nhiên, ơ mức độ giới hạn nào đó, càng vào sâu trong rừng mật dộ lan sẽ giảm dần, cũng phải kể một trường hợp cá biệt khác là loài Hạc đỉnh chỉ mọc trên các trảng trống trong rừng, xen kẽ vổi các loài cỏ dại.

Rừng Việt Nam có nhiều loài lan quý nhưng chưa được quản lý và khai thác một cách hợp lý. Điển hình nhất là loài lan hài Hồng Paphiopedilum Delenatii. Trước đây nhiều nước yêu cầu Việt Nam xuất khẩu sang cho họ loài lan này, nhưng giờ không tìm ra. Đến năm 1993 khi phát hiện loài lan này thì thương nhân Đài Loan đã mang về nước họ gần 3 tấn (khoáng 100.000 cây) làm Việt Nam mất hàng triệu Đôla. Đây là loài lan quí, nhưng vì chưa có chính sách quản lý nên nhiều người xuất lậu dưới dạng bán kg. Một sự thất thoát tài nguyên vô lý ! Tháng 2/1995 nhiều chủng loại lan rừng Việt Nam được trưng bày tại TOKYO (Nhật Bản) và dã gây được sự chú ý của giới lan chuyên nghiệp trên thế giới, Đầu năm 1997 Canada cũng mời Việt Nam trưng bày, và giới thiệu một số mẫu lan rừng nhưng chúng ta không tham gia được.

Với sộ lượng 500 loài của riêng các tỉnh miền Nam, chưa kể một số loài do điều kiện chiến tranh chúng ta chưa tìm kiếm được. Việt Nam cũng thuộc là một trong những nước có lan nhiều trên thế giới.

Về màu sắc, lan Việt Nam có nhiều màu từ nhạt sang dậm, màu trắng tuyền như’ loài Thạch hộc (Dendrobium crumenatum), Tuyết Ngọc (Coelogyne mooreana) Màu vàng như các loài Kim Điệp (Dendrobium capillipes). Màu cam như Ascocentrum miniatum. Màu đổ như Huyết nhung (Renanthera coccinea). Màu hồng như Hồng lan (Cymbidium insigne). Màu trắng xanh như Mỹ dung dạ hương (Vanda denisoniana). Màu cà phê sữa như Hạc đỉnh (Phaius Tankervilliae) Màu nâu như Đoản kiếm (Cymbidium aloifolium) màu tím hoa cà như Giả hạc (Dendrobium anosmum) (Chỉ riêng màụ đen không xuất hiện trên bất kỳ một loài lan nào, ở Việt Nam hay trên thế giới?). Với một số lượng màu đa dạng như vậy, nếu được lai tạo lan Việt Nam sẽ có một tổ hợp về màu sắc rất phong phú. Chưa kể một số loài lan khảm có sẳn trong thiên nhiên như loài Đuôi cáo (Aerides multiflora) Ngọc điểm (Rhynchostylis gigantea), cểm báo (Hygrochilus parishii), Bò cạp (Arachnis annamensis), Long nhãn kim điệp (Pendrobium fimbriatum) Thái bình (Dendrobium pulchellum).

Về độ bền của lan, Việt Nam có nhiều giống lan rừng nở trên 2 tháng như Mỹ dung dạ hương, Huyết nhung, Hoàng lan, Hồng lan… Có loại trung bình 1- 2 tuần như Long tu (Dendrobium primulinum), Kim điệp, Đuôi cáo, Ngọc điểm… Thậm chí có loài chỉ nở một ngày như loài Thạch hộc.

Về kích thước, lan rừng Việt Nam có nhiều loài hoa bé như các loài của giống Eria. Các loài khác có kích thước trung bình. Một vải loài có kích thước lớn hơn 10cm như Hạc đỉnh, Huyết nhung, Mỹ dung dạ hương.

Về hương thơm, đây là ưu điểm chính của các loài lan Việt Nam. So với các loài lan lai, lan rừng Việt Nam có kích thước bé hơn nhưng nhờ đa sô’ có mùl thơm nên vẫn hấp dễn các người ái mộ như Mỹ dung dạ hương, Hạc đỉnh, Đuôi cáo, Ngọc điểm. Thạch hộc, Thanh ngọc, Nhất điểm hồng, Giả hạc…

Lan Việt Nam là lạn của vùng nhiệt đới chịu ảnh hưởng bởi 2 mùa nắng mưa rõ rệt, vì thế đa số các loài lan mỗi năm chỉ cho một kỳ hoa, trừ loài Thạch hộc có thể nở bất kỳ trong năm. Mùa nở hoa tập trung vào 2 thời kỳ vào khoảng tháng 2 (tức tết âm lịch) và tháng 4 trong mùa nắng do sự thọ hàn và quang kỳ tính và tháng 7 tháng 8 do sự khô hạn.

Với các đặc điểm trên, lan Việt Nam là nguồn thuận lợi để lai giống lan, nếu chúng dược khai thác đúng mức trên khía cạnh di truyền học.

Có thể tạm chia lan rừng của các tỉnh miền Nam làm 4 khu vực khác nhau : 1. VÙNG MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

Đây là vùng rừng khô đã bị khai thác nhiều lần, tầng trên còn ít gỗ quí, tầng dưới là các loại gỗ tạp mới tái sinh, trải dài từ biên giới Cambodia đến biển Đông như các vùng : Xuyên Mộc, Bình Giả, Mã Đà, Lộc Ninh…

Ớ đây lan mọc nhiều nhất trên các cây Vừng (Careya arborea) Cây Râm (Anogeissus acuminata). Rải rác lan cũng mọc trên vỏ cây các loài khác như Sến mủ (Shorea roxburghii). Sao (Hopea odorata), Thành ngạnh (Cratoxylon sp.) Bằng lăng (Lagerstroemia sp), Dầu con rái (Dipterocapus alatus).

Vùng này tập trung các loài có hoa đẹp như :

– Đuôi cáo (Aerides miltiflora) – Ngọc điếm (Rhynchostylis gigantea) – Giáng Hương (Aerides fcdcata). – Đuôi chồn (Rhynchostylis retusa). – Hỏa hoàng (Ascocentrum miniatum)

Vùng này còn có một loài lan đất là lan Bầu rượu (Calanthe cardioglossa) có nhiều ở trên các sườn núi đá ớ Vũng Tàu, Bà Rịa, Long Khánh.

Ngoài ra ở đây còn có một sô loài khác, không có giá trị về phương diện thẩm mỹ như:

– Tổ Yến (Acriopsis indica): Xuân Lộc. – Chân rết (Appendicula cornuta): gần suối. – Sậy lau (Arundina graminifolia): gần suối. – Thanh hoàng (Calanthe graminifolia): Vũng Tàu. – Lọng lan (Bulbophylỉum eberhardtii): gần suối. – Hoàng yến (Coelogyne massengeana): Định Quán. – Thanh đạm xanh (Coelogyne brachyptera): gần suối. – Đoản kiếm (Cymbidium aloifolium): khắp nơi. – Thanh ngọc (Cymbidium ensifolum): suối. – Bạch câu (Dendrobium crumenatum): khắp nơi. – Nhất điểm hồng (Dendrobium draconis): khắp nơi. – Tép dẹp (Dendrobium flabellum): gần suối. – Ý thảo (Dendrobium gratiosissimum): khắp nơi. – Vảy rùa (Dendrobium nathanìelis): Long Khánh – Báo hỉ (Dendrobium secundum): khắp nơi. – Nỉ lan (Eria globilifera): khắp nơi. – Cành giao (Luisia psyche): Đồng Nai – Da beo (Staurochilus fasciatus): Gần suối – Bắp ngô (Acampe rigida): khắp nơi.

2. VÙNG TRUNG NGUYÊN

Đây là vùng có cao độ trung bình 700 – 1.000 m . Nhờ nhiệt độ thấp, khí hậu ẩm mát, địa hình nhiều đồi núi. Rừng bị khai thác nhiều lần, nếu rừng nguyên thủy bị xâm chiếm bởi các rừng tre, lồ ô, thông 2 lá, ở đây còn có rừng hỗn giao giữa rừng thông 2 lá và dầu trà beng. Điều lưu ý là lan không bao giờ mọc ở rừng tre và hiếm khi mọc ở rừng thông. Nhiều nhât ở rừng diệp loại và rải rác ở rừng hỗn giao, nhưng cây chủ vấn là cầy diệp loại.

Ớ vùng này, đa số các loài lan mọc trên các loại cây chủ yếu sau đây : như Cà chắc (Shorea obtusa), cẩm liên (Swrea siamensis) Cà gần (Terminalia tomentosa) Chò xót (Schima crenata Korth) Các loại Dẻ sồi (Quercus, lithocarpus…), Sao (Hopea odorat), Sến (Shorea roxburghii) Vừng ( Carey a aborea) các loài trâm, các loài Bằng lăng, Thành ngạnh vì có vỏ láng và thay vỏ hàng năm nên các loài lan chỉ mọc được trong các bọng cây. Một số loài phong lan và địa lan lại mọc trên đá, ven suối. Vùng này có các loài địa lan mọc trên các vùng đầm lầy, trong các thung lũng giữa các dãy núi.

Đây là vùng tập trung nhiều giống Dendrobium có hoa đẹp nhất Việt Nam. Một tập đoàn Dendrobium gồm các loài: Lụa vàng (D.heterocarpum), Hoàng phi hạc (D. signatum) Thủy tiên các loại (D.densiflorum, D.haveynum, D. farmeri, D. thyrsiflorum), Long tu (D.primulinum), Kim điệp (D.capillipes) mọc xen kẽ nhau trên cóc cây dẻ, sồi trâm trong các quần thể rừng diệp loại, dọc theo triền núi, khe suối. Loài

Nhất điểm hồng (D.draconis) trên các cây Dầu trà beng hoặc Dầu đồng, Dẻ trong các rừng hỗn giao. Loài Giả hạc (D.anosmum) nhiều nhất trên cây cà chí, đôi khi trên các cây giẻ sồi, một số ít mọc trên đá, nhiều nhất ở vùng Tam Bố (Lâm Đồng) trải dài theo hướng Tây qua biên giới tỉnh Đắc Lắc rải rác loài này cũng mọc dọc đèo Ngoạn Mục, Đơn Dương, nhưng loại ở đây trổ hoa chậm sau tết 15 ngày. Loài Long nhãn kim điệp (Dendrobium fimbriatum) hầu như chỉ mọc trên đá dọc suôi ở Di Linh, loài Ý thảo (D.gratiosissimum) mọc trêncác cây Dẻ về phía Đông hướng về Phan Rang, Phan Thiết. Loài Đại ý thảo (D.aphyllum) chưa bao giờ được tìm thấy trên độ cao khỏi đèo Bảo Lộc. Loài Vảy cá (D.lindleyi) có ở Liên Khàng và Phi vàng. Loại Thạch hoa (D.linguella) hiếm gặp, loài Huyết nhung (Renanthera imschootiaha) mọc trên các cây Dẻ sồi, gần bờ suối, hoặc trên vách đá lưng chừng xuống chân núi. Loài Bò cạp (Arachnis annamensis) mọc trên các dông núi vùng rừng rậm có nhiều ở núi vôi, loài Mỹ dung dạ hương (Vanda denisoniana) chỉ mọc từ Di Linh đến Đơn Dương, Ca-đô có nhiều, loài này mọc nhiều trên cây Keo dậu, ở các đồn điền như Phi Vàng. Loài Đuôi cáo mọc nhiều trên các cây rừng thưa từ đèo Phú Hiệp đến thác Pông-gơ. Loài Hạc đỉnh (Phaius tankervilliae) mọc ở trảng trống trong rừng vùng đầm lầy hay vùng trũng thường mọc chung với loại lan khác là Ngãi Bưởi (Dipodium paludosum) rất thơm và loài Cau diệp ngà (Spathoglottis eburhea), có nhiều từ Di Linh đến Lang Hanh, vùng Tàu, có một đồng băng dài 10 – 50 km trước đây có rất nhiều hạc đỉnh.

Hiện nay khu rừng này đã bị phá và làm lúa. Loài Vân hài (Paphiopedilum cailosum) mọc trên đất dựa suôi hoặc ven các dầm lầy với các loài Hạc đỉnh và Ngài bưởi. Loại kim hài (Paphiopedilum Villosun) mọc nhiều thành từng dám trên thân cây Dẻ, Loại Xích thử mọc trên cây li hi, từ đèo Ông Cố đến Lang Hanh. Loài Bầu rượu cò nhiều ở Phương Lâm và núi Chứa Chan. Một loài đặc biệt chỉ mọc trên cây thông là loài Bạch Hỏa hoàng (Dendrobium bellatulum)

3. VÙNG CAO NGUYÊN

Đâylà vùng có cao độ trên l.000m, nhờ khí hậu lạnh ẩm, điều hòa, địa hình đồi núi, đây là nơi ưu thế ciia rừng thông 3 lá. Tuy nhiên các loài lan chỉ xuất hiện ở các thung lũng hoặc trên sườn núi có nhiều cáy diệp loại như sồi, dẻ.

Vùng này có các loài lan được biết đến là :

Hồng lan (Cymbidium insigne) mọc trên đất thường chung với cỏ tranh trên các dòng núi. Loài Hoàng lan (Cymbidium iridioides) mọc trên các bọng cây hoặc các cồy bạch tùng (Podocarpus imbricatus) có nhiều rêu vùng rừng rậm. Loại Hổng hoàng (C.insigne x.c.iridioides) một cây lan lai tự nhiên giữa Hoàng lan và Hồng lan thường mọc trên các cây bạch tùng. Loài Bạc lan (Cymbidium erythrostylum) loài Tử cán (Cymbidium dayanum) loài Thanh lan (CymbidiUììì cyperifolium) hiếm hơn được trồng có hoa rất thơm từ Đà Lạt. Loài Tuyết ngọc (Coelogyae mooreana) và nhiều loài Coelogyne khác có nhiều ờ núi Bà Laubiang và các thác, thung lũng ẩm. Loại Nhất điểm hoàng (Dendrobium flavum) có trên các cây Sồi Dẻ ở đèo Pren và Đà Lạt.

4. VÙNG NAM VÀ TRUNG TRUNG BỘ

Đây là vùng tập trung nhiều loài lan qúy và đặc hữu của Việt Nam. Nếu đi từ Ninh Thuận, Khánh Hòa về phía cao nguyên Buôn Mê Thuột thì sự xuât hiện của các loài lan gần giống vùng Bảo Lộc – Di Linh với các loài Thủy Tiên, Nhât điểm hồng; Loài Ngọc Bích (Rhynchostylis coelestis) chỉ mọc trong các kiểu rừng bán thay lá từ Bình Thuận đến Khánh Hòa – Loài Ngọc điểm từ Bình Tuy kéo dài đến Nha Trang ra tận nhừng đáo xa, ngược lêu sông Krõng Bách ân giáp qua Tô hợp, Ngọc Điểm ơ đày có trữ lượng rất lớn khoảng vài chục vạn cây và có cả loài Ngọc điểm trắng. Vùng này bị ảnh hướng của gió biển nhiều nên lan mọc rất thấp dưới 5m dễ lấy và thường mọc trên gộp đá có rêu. Vùng đèo Đại Lảnh, từ cầu sắt đến Đồ Sơn cạnh hồ sen có một loài Hài màu trắng chưa định danh khá đẹp.

Ở Dục Mỹ, vùng Hòn tre, Hòn ngang có loài Giá Hạc. Nếu qua khỏi đèo Phượng Hoàng, vùng Khánh Dương có các loài Thúy tiên tím (Dendrobium amabile), Hoàng Thao Xoán (Dendrobium tortile) Tím Huế (Dendrobium hercoglossum). Tại vùng giáp ranh giữa Ninh Thuận – Khánh Hòa và Đaklak còn có các loài lan đăc hừu và quý hiếm như :

Hài Hồng (Paphiopedilum delenatii). Huyết Nhung giún (Renanthera coccinea) Huyết Nhung trơn (Renanthera imshootiana) Thái Bình (Dendrobium pulchellum) Đơn Cam (Dendrobium unicum)

Trong vùng này còn có hai loài lan mới vừa được công bố trên thế giới năm 1993 bởi Tiến sĩ Haager (Viện Hàm Lâm Khoa Học Tiệp Khắc)

Loài thứ nhất là Ascocentum christensonianum (Tứ Hoàng) mọc trong rừng bán thay lá gió mùa, Phan Rang ở dộ cao 100 – 150m, ở dây chúng mọc chung vối loại Ngọc điểm (Rhynchostyiis gigantea), Điểu lan (Dendrobium delacourii),… loài này còn gặp ở Buôn Ya Vầm (Đaklak).

Loài thứ hai là Christensonia vietnamien (Uyên Ương) mọc trong rừng ẩm cao độ l00m, dọc theo suối Ea Dong gần làng Ninh Tây (Khánh Hòa). Loài này còn gặp ở cấc khé suôi dọc theo dèo Mang Yang (Gia Lai). Đây là một giống lan mới cho thế giới được đặt tên cho Tiến sĩ Eric A. Ghristenson, một chuyên gia lan nổi tiếng của thế giới về tông Aeridinae. Hiện loài này đã được lai tạo thành công ở Việt Nam.

Thực ra, từ năm 1984 loài này đã được chúng tôi mang về trồng tại thành phố Hồ Chí Minh từ nhà một người bạn ở Phan Rang. Và vì lần đầu tiên ra hoa tại thành phố Hồ Chí Minh chỉ có hai hoa nên chúng tôi đặt tên là “Uyên Ương” vả tặng cho nghệ nhân

Nguyễn Văn Để một trong nhiều cây đem về. Năm 1990, một trong những cây đó đã đoạt giải nhất hội thi lan rừng nhân kỷ niệm 19/5 – 100 năm ngày sinh Hồ Chủ Tịch vì vậy nó có tên là “Cù lao Minh” quê hương của nghệ nhân Nguyễn Văn Để, hiện là phó chủ tịch Hội hoa lan cây cảnh thành phố Hồ Chí Minh.

Hoa Lan Hấp Thụ Nước Và Dinh Dưỡng Như Thế Nào?

Nắm được nguyên lý hấp thụ nước và dinh dưỡng của cây hoa lan. Bạn sẽ suy ra nhiều phương pháp làm thế nào để cung cấp nước và dinh dưỡng cho lan phát triển tốt nhất.

1. Giải thích từ ngữ dùng trong bài viết

Thẩm thấu là sự khuếch tán của các phân tử qua 1 màng có tính chọn lọc ion. (còn gọi là màng bán thấm). Ưu trương (tiếng Anh: hypertonic) là môi trường mà nồng độ chất hoà tan lớn hơn so với môi trường nội bào. Nếu một tế bào sống được đặt trong môi trường ưu trương so với nó thì sẽ xảy ra hiện tượng nước từ trong tế bào sẽ đi ra ngoài làm cho tế bào bị mất nước.

Môi trường đối ngược với ưu trương là nhược trương (hypotonic). Khi cho tế bào vào môi trường này nước từ ngoài sẽ vào tế bào làm tế bào căng cứng lên và nếu sự chênh lệch quá cao sẽ làm tế bào vỡ. Môi trường trung gian là đẳng trương (isotonic).

2. Lan hút nước như thế nào?

Lan bốc hơi nước trên mặt lá đồng thời quá trình quang hợp của lan cũng sinh ra nhiều chất hòa tan (axit hữu cơ, đường saccarozo..) khiến cho môi trường bên ngoài rễ trở thành nhược trương. Do đó nước bị thẩm thấu qua lông hút vào bên trong rễ. Nước được hấp thụ vào lan luôn theo cơ chế thụ động nhờ sự chênh lệch áp suất thẩm thấu.

Kết luận: lá bốc hơi nước càng mạnh thì lan hút nước càng nhiều. Vậy nên bạn hãy cố nghĩ đủ cách sao cho lá bốc hơi nước thật nhanh vào. Ví như đặt lan nơi nhiều nắng và gió, đủ nước. Hoặc luôn rửa lá thật sạch, bởi bụi bẩn ngăn cản sự thoát nước. Đương nhiên bạn cũng phải cung cấp đủ nước, nếu thiếu cây lại héo.

3. Lan hấp thị dinh dưỡng như thế nào?

Khác với nước, lan hút muối khoáng qua 2 cơ chế: + Thụ động: Khi nồng độ muối khoáng ở môi trường bên ngoài lông hút cao thì tự nhiên muối thẩm thấu vào trong rễ. + Chủ động: Khi nồng độ muối khoáng bên ngoài rễ thấp hơn trong rễ, lan vẫn lấy được muối khoáng nhờ năng lượng ATP. Ta không phải nhà sinh học, ta chỉ cần hiểu là dù phân nhiều hay phân ít thì lan vẫn lấy được như thường.

a. Cái gì tan trong nước thì lan mới lấy được.

Bạn đặt một cục phân vào chậu rồi bảo lan ăn thì nó cũng đến chịu. Muốn nó hấp thụ được thì phân đó phải tan trong nước. Phân đó phải có mấy con khuẩn nó xé nhỏ thật là nhỏ thành ion thì rễ mới dùng được. Nếu mà không như thế thì lượng phân ấy cứ ở yên đó. Thấy lan không khá, tưởng phân yếu, bạn tống thêm phân, thế là rễ ngộp phân, cháy rễ rồi chết. Vậy dùng phân tan chậm, phân gia súc thì cây cũng hấp thụ khi bạn tưới nước làm cho phân đó ẩm đi. Bón phân mà lười tưới thì cây cũng không hút được bao nhiêu, chỉ là phân khô thôi.

b. Khi rễ lan ngừng làm việc thì đừng bón phân.

Khi trời nóng quá, lạnh quá, mới thay chậu/giá thể thì rễ lan sẽ rất ít hoặc không hoạt động. Thế mà bạn lại cứ tống thêm phân vào. Khi đó, môi trường bên ngoài rễ sẽ là ưu trương. Phân sẽ hút nước của rễ ra chứ rễ chẳng lấy được nước của phân. Thế là lan héo.

c. Thời gian tưới càng lâu, lan ăn được càng nhiều.

– Thế tại sao không ngâm luôn lan vào nước? Vì nếu ngâm lâu lông hút của rễ sẽ chết do thiếu oxy.

– Thế pha trộn chất trồng sao cho giữ nước vài tiếng, đỡ phải tưới vài tiếng liên tục có được không? Cũng được nhưng không tốt bằng việc tưới liên tục. Bởi tưới nhanh ào ào một cái nước sẽ chưa kịp ngấm được đều khắp giá thể. Phần lớn chỉ chảy men theo bề mặt giá thể, thành chậu rồi trôi mất, giữa chậu vẫn khô. Nhất là giá thể than củi, vỏ thông không có khả năng thấm nước nhanh. Ngoài ra việc tưới từ từ cũng cung cấp một lượng oxy tươi mới trong chậu. Như các thầy Nhật Bản dạy tưới cây: “Hãy tưới từ từ cho tới khi thấy nước rỉ ra khỏi lỗ chậu”.

4. Những câu hỏi vì sao.

Vì sao ngập úng lâu lan sẽ chết?

Ngập úng lâu -> rễ lan thiếu Oxy -> lông hút chết -> lan không hấp thụ được nước -> lan héo và chết.

Vì sao lá “khóc”?

Sáng sớm đôi khi bạn thấy giọt sương mai đậu trên lá. Đẹp lắm phải không? Nhưng lan không thích thế. Đó là do trong chậu ẩm quá, nồng độ chất tan thấp khiến lan hút nước liên tục và trương lên. Tới một giới hạn nào đó lan chứa không nổi thì buộc lá lan phải mở các khí khổng và tống nước ra ngoài. Nghĩa là bạn nên xem lại xem giá thể có ẩm quá không.

Xưa nay vẫn nghe nói lan hút nước lên nhờ lực mao dẫn, vậy nên hiểu chính xác thế nào?

Đúng là lực vật lý giúp lan đưa nước lên cao là lực mao dẫn. Nhưng vấn đề là lan phải sống trong môi trường nhược trương (nồng độ muối khoáng trong lan cao hơn bên ngoài) thì mới hút được nước.

Nếu bạn bỏ 1 nắm muối vào gốc lan. Môi trường sẽ thành ưu trương, nước sẽ không thẩm thấu vào lông hút nữa. Khi đó thực sự lan chết khát chứ không phải “ngộ độc muối” mà chết. Người ta hay nói hiện tượng này là giá thể bị đọng muối. (giá thể tích muối do bón phân, do muối trong nước tưới…). Trồng chậu hay bị đọng muối hơn ghép gỗ. Điều đó có nghĩa là nếu bạn tìm cách nào đó tẩy sạch muối khỏi giá thể, lan lại tươi hơn hớn ngay.

Khi bạn chăm sóc tưới tắm lan hợp lý mà cây vẫn héo. Hãy để ý xem có phải do giá thể đã quá cũ không? Có thể là do đọng muối làm cây không hút nước. Cách xử lý đơn giản là ngâm ngập cả chậu lan/giò lan vào chậu nước sạch 2-3 giờ đồng hồ cho bớt muối trong giá thể. Yên tâm lan lặn vài tiếng đồng hồ trong nước không sao đâu. Nếu giá thể cũ quá thì thay mới luôn.

Superthrive: Giải Pháp Dinh Dưỡng Cho Lan Và Cây Trồng

Superthrive là gì?

Theo thông tin từ nhà sản xuất Superthrive là loại chất lỏng chứa 50 loại hormon, vitamin và vi lượng đặc biệt là B1 rất cần thiết cho sự tăng trưởng của cây trồng.

Superthrive được sản xuất và nhập khẩu trực tiếp từ USA (Mỹ). Đây là chất kích thích tăng trưởng tốt nhất được sử dụng nhiều trên thế giới từ năm 1940. Nó sử dụng được cho cả dung dịch thủy canh, đất trồng và chăm sóc cho hoa lan cây cảnh….

Superthrive KHÔNG phải là phân bón. Nhưng khi bạn kết hợp với phân bón khác sẽ đem lại kết quả đáng kinh ngạc

Superthrive có tác dụng gì?

Tác dụng chính của superthrive là phục hồi sức sống cho cây trồng: hoa lan, cây cảnh… Hồi sinh cây sau thời gian bị bệnh. Chống sốc cho cây mới cấy ghép hoặc khi vận chuyển cây đi xa.

Sử dụng superthrive thường xuyên sẽ bổ sung hormon và vitamin giúp cho lan và cây trồng tăng trưởng tốt. Đồng thời giúp cải tạo chất lượng đất cho cây trồng hoặc giá thể trồng lan.

Theo kinh nghiệm thì dùng superthrive cho lan đơn thân sẽ giúp phòng tránh rụng lá chân. Sử dụng làm dung dịch ngâm gốc cho lan trước khi trồng, cây lan con hoặc kie lan mới tách sẽ giúp cây nhanh ra rễ.

Superthrive là chất kích thích sinh trưởng KHÔNG phải là phân bón. Chính vì thế vẫn cần dùng chung với các loại phân NPK và phân hữu cơ khác (cá, bánh dầu) để mang lại hiệu quả cao nhất.

Cách sử dụng superthrive cho lan

Phun trực tiếp cho lan trưởng thành theo liều lượng: 1-1,5ml pha chung 4 lít nước, phun ướt đẫm cả chậu. Định kỳ 2-3 tuần phun 1 lần kết hợp với các loại phân bón lá khác để tăng sự hiệu quả. Đối với cây lan con mới trồng nên pha loãng hơn 0,5-1ml cho 4lít nước 1-2 tuần phun 1 lần.

Khi sử dụng superthrive cho lan nên kết hợp với phân bón khác theo từng giai đoạn sinh trưởng. Khi lan bắt đầu ra mầm thì pha chung với phân có hàm lượng đạm cao 30-10-10. Giai đoạn cây đang phát triển dùng kết hợp với phân có hàm lượng cân bằng 20-20-20. Lúc cây lan bắt đầu đứng ngọn chờ hoa kết hợp với phân có hàm lượng lân cao. Giai đoạn ra hoa kết hợp với phân có lượng kali cao. Cứ luân phiên như vậy chắc chắn cây sẽ phát triển tốt.

Ngoài ra có thể sử dụng superthrive cho lan bất cứ khi nào thấy cây bị yếu hoặc suy giảm sức sống. Tuy nhiên cũng nên sử dụng vừa phải tránh lạm dụng thuốc.

Kinh nghiệm sử dụng superthrive cho lan

Do thuốc khá mắc tiền nên để tránh trường hợp lãng phí các bạn có thể dùng ống tiêm để đong theo ml hoặc chiết ra chai thuốc nhỏ mắt để đo theo giọt.

Theo kinh nghiệm sử dụng Superthrive thì: 1 giọt/ lít nước giúp cho cây lan phát triển ổn định cả thân lá và rễ. 2 giọt kích thích rễ. 3 giọt kích thích hoa. 4 giọt kích thích ra kie con. 5 giọt kết hợp các loại khác siêu ra rễ. Tất cả đều tính bằng giọt / lít nước

Lan mới ghép, mới thay chậu, mới mua về hoặc kie lan mới tách… Dùng hỗn hợp Superthrive + B1 + B12 mỗi loại 1ml pha chung với 4lít nước ngâm cả cây trước khi trồng. Những ngày sau cũng với liều lượng như trên phun ướt cả thân lá 3 ngày/lần. Làm song song với việc giữ ẩm, để cây chỗ thoáng mát… Cây sẽ rất nhanh hồi phục, giảm hẳn việc rớt lá chân, bung rễ mới rất nhanh. Sau khi cây ấm chậu rồi thì chuyển sang chế độ chăm sóc bình thường

Đối với trường hợp cây khó ra rễ: 5 giọt Superthrive + 2 giọt atonic (hoặc dekamon) + 1ml B1 + 1gr N3M + 1ml Terrasorb4/ lít cứ 3 ngày 1 lần tới khi nhú rễ thì ngưng.

Lưu ý khi sử dụng superthrive cho lan

Dung dịch sau 24 giờ pha loãng sẽ giảm tác dụng chính vì thế nên sử dụng với lượng vừa phải tránh gẫy lãng phí. Bên cạnh đó không nên sử dụng phun khi cây đang ra hoa.

Superthrive tuy không độc hại nhưng vẫn nên rửa tay thật kỹ sau khi sử dụng xong. Bảo quản nơi khô ráo, thoáng mát tránh ánh nắng trực tiếp để không làm giảm chất lượng.

Superthrive giá hiện nay khá mắc. Nhưng có 1 điểm không an tâm là nắp chai không có tem bảo hiểm, không thể biết được chai đã mở ra và phối trộn gì hay không. Chính vì thế với giá chát vậy thì khó lòng lọt tay gian thương… Cách hay nhất là chọn mua chỗ tin tưởng.

Câu hỏi thường gặp khi sử dụng Superthrive

Một chai Superthrive thường có thể tích bao nhiêu?

Hiện nay trên thị trường phổ biến với những chai Superthrive 120ml, Superthrive 60ml, 30ml, 50ml và 480ml.

Vì sao nên sử dụng Superthrive?

Vì nó là một giải pháp dinh dưỡng không độc hại cho môi trường và cây trồng. Hoạt động trực tiếp trên rễ và hạt để tạo ra bộ rễ mạnh mẽ và 1 cây con khỏe mạnh. Superthrive giúp hồi sinh cây bị bệnh và chống sốc cho cây trồng rất tốt. Các chuyên gia trên khắp thế giới, bao gồm người làm cảnh, người trồng trọt, giám sát sân cỏ và sân gôn đều sử dụng Superthrive để ghép cây, cải thiện năng suất cây trồng và trồng những bãi cỏ tươi tốt.

Nếu bạn dự định sử dụng Superthrive cho phong lan, cây cảnh, cây ăn trái…. Hay đơn giản chỉ là làm cho cây cối trong nhà xanh mát, Superthrive sẽ giúp bạn đạt được mục tiêu trồng cây của mình.

Superthrive kết hợp với phân bón hoặc thuốc trừ sâu được không?

Có đối với Phân bón: Superthrive có thể được kết hợp với phân bón yêu thích của bạn, vì nó sẽ giúp cây trồng của bạn tận dụng tối đa lượng dinh dưỡng đó.Không với thuốc trừ sâu: Bạn sẽ muốn tránh kết hợp Superthrive với thuốc trừ sâu vì chúng phục vụ các mục đích trái ngược nhau.

Superthrive có độc không?

Superthrive không độc. Trẻ em và thú cưng có thể vui chơi an toàn trong khu vực đang sử dụng thuốc.

Tuy nhiên cũng như nhiều sản phẩm làm vườn khác, trẻ em chỉ nên sử dụng khi có sự giám sát của người lớn. Đôi khi thuốc có thể gây kích ứng mắt hoặc da nhẹ. Chính vì thế nên đeo găng tay khi sử dụng và cẩn thận để không bị thuốc văng vào mắt. Nếu bị kích ứng, chỉ cần rửa sạch bằng nước. Nếu kích thích vẫn còn, tìm kiếm sự chăm sóc y tế.

Bài viết xem nhiều: