Top 4 # Xem Nhiều Nhất Lan Kiếm Tuyết Ngọc Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Vitagrowthheight.com

Kiếm Trắng Tuyết Ngọc, Bán Kiếm Trắng Tuyết Ngọc Cây Chuẩn

Hoa Lan kiếm Trắng Tuyết Ngọc thuộc dòng Kiếm Lô Hội.

Cây hoa dạng cánh bầu, môi hoa cân đối, chia hoa khá đều và đẹp.

Kiếm Trắng Tuyết Ngọc là cây lan hiện được rất nhiều người ưa chuộng vì đặc tính rất dễ trồng, dễ ra hoa, siêng hoa và màu sắc rất bắt mắt. Hiện tại giá thành cây cũng rất hợp lí và cũng rất đáng để sưu tầm vào vườn hoa của nhà bạn.

Phân bố vùng miền cây Kiếm Trắng Tuyết Ngọc

Kiếm Trắng Tuyết Ngọc là cây có nguồn gốc xuất xứ và được đặt tên tại Hải Phòng. Chủ cây xổ hoa được bông hoa lan kiếm trắng đột biến rất đẹp, dạng cánh thủy tiên. Ngày đó trào lưu chơi lan kiếm còn mới và có rất ít cây lan kiếm đột biến trắng được tìm thấy nên để có cây đột biến trắng là rất quý.

Cây được ra đời với tên là Tuyết Ngọc bởi màu hoa và độ quý hiếm của cây.Thể lệ đặt tên là để dễ nhớ tên cây hoa lan đột biến.

Hình dáng cây hoa lan Kiếm Trắng Tuyết Ngọc

Thân cây kiếm sẽ phình ra và cao khoảng từ 2-5 cm(có thể cao hơn tùy thuộc vào vùng khí hậu trồng cây). Thân cây phình ra rộng khoảng 2-4cm.Thân cây thường có màu xanh tuyền, xanh vàng và có thể có sọc trắng mờ dọc theo thân. Khi mới ra mầm cây chưa có thân thì thường mỏng và màu có thể khác 1 chút. Đến khi cây bắt đầu trưởng thành thân cây mới bắt đầu phình ra.

Lá cây kiếm tuy có thân nhỏ và bé nhưng bộ lá lại to và dài hơn nhiều.

Cây có đủ nắng lá sẽ to và ngắn hơn những cây nuôi trong vườn mát và thiếu ánh sáng.

Thườngcây đến gần cuối năm sẽ ngừng phát triển hoặc chậm phát triển hơn và đợi đến mùa nảy mầm hoặc ra hoa vào năm sau.

Rễ cây: Rễ cây thuộc loại rễ chùm, đầu rễ thường có màu trắng trong và màu trắng tím. Thân rễ

thường có màu trắng ngà và ít khi có màu khác. Với khí hậu nóng và không lạnh thì rễ mọc quanh năm, còn nếu có mùa đông rễ cây

sẽ ngừng phát triển hoăc phát triển rất chậm. Cây ra rễ ở gốc, rễ cây bắt đầu ra sẽ có rất nhiều đầu rễ sau đó theo

năm tháng sẽ dài ra và tiếp tục ra nhiều rễ phân nhánh con bám vào chất trồng để đi tìm hơi ẩm.

Đặc điểm sinh học cây lan Kiếm Trắng Tuyết Ngọc

Mùa nở hoa dải rác và thường vào từ tháng 3 đến tháng 6.

Cần hoa và bông hoa: Hoa dạng chùm và mọc ra và rủ luôn xuống đất rất mềm mại, cần hoa mọc ra ngay ở mắt thân cây và ở sát gốc có chiều dài khoảng 30-60 cm và to khoảng từ 0,3-0,5 cm.Cần hoa rất quan trọng vì cây to thì hoa sẽ dài và rất nhiều bông . Độ

dày hoa phụ thuộc vào cách trồng cây khác nhau, thường cần hoa ra ở thân tơ và trưởng thành trong năm. Hoa mọc rất đều trên cần, thường mỗi cần sẽ có từ 15-30 bông hoa. Mỗi bông hoa có đường kính từ 4-6cm(có thể to hơn hoặc nhiều bong hoa hơn do tình trạng cây ).

Những cây hoa cánh hoa bầu to nên được rất nhiều người lựa chọn.

Màu Sắc và Hương Thơm: Hoa Lan Kiếm Trắng Tuyết Ngọc thường mới nở có trắng (cánh hoa mới nở màu trắng,lưỡi có màu vàng trắng(hoa đột biến var alba). Cây nuôi trong điều kiện ít ánh sáng thì màu chủ yếu 70% là màu xanh. Cây nuôi nhiều nắng hoặc ở trong điều kiện khác cũng có thể nở màu ngà vàng.

Hoa Lan Kiếm Trắng Tuyết Ngọc cánh hoa rất to, hoa thơm ngát . Độ

bền của hoa khoảng 5-7ngày nếu ở trong điều kiện nóng và khô,cũng có thể lên đến đến

khoảng 15 ngày nếu thời tiết mát mẻ .

Điều kiện cây lan Kiếm Trắng Tuyết Ngọc phát triển tốt

Hoa Lan Kiếm là loại hoa lan rất dễ trồng nhưng điều kiện tốt nhất là ưa ẩm và thoáng gió. Ánh sáng từ 20-50% và

độ ẩm trong không khí 70%-80% là cây phát triển tốt. Bạn chỉ cần có 1 khu vườn nhỏ với có ánh

náng khoảng 3h đồng hồ trở lên. Độ ẩm phù hợp để trồng và nuôi cây thì có thể tạo ra bằng cách

đặt những khay nước phía dưới dàn để tạo độ ẩm cho vườn. Nếu vườn không ít gió hoặc hoàn

toàn không có thì nên lắp một chiếc quạt thông gió vừa giúp thông gió vừa làm mát cho cả vườn.

Tuy nhiên vì cây rất dễ trồng nên cũng có thể chịu hạn và nắng rất tốt.

Cách trồng cây lan Kiếm Trắng Tuyết Ngọc

Khi mua cây Hoa Lan Kiếm về cần làm những bước sau:

1.Chuẩn bị giá thể trồng cây: Giá thể trồng cây có thể trồng bằng đất, chấu hun, vỏ thông,sỏi nhẹ…quan trọng nhất là giá thể cần phải sạch.

2.Cách tách cây ra khỏi chậu: khi nhổ cây ra khỏi chậu cần rửa sạch bộ rễ, sau đó sát khuẩn và để khoảng 5 phút thì tách cây ra và cắt hết những rễ bị khô hoặc bị sâu bệnh

sau đó bôi keo liền sẹo vào những vết dập và phun 1 lần thuốc chống nấm bệnh, sau đó trồng vào chậu.

3.Trồng cây vào chậu phải đặt thẳng để ngọn

cây hướng lên trên giúp cây quang hợp tốt,giữ cho gốc thật chắc phòng khi va chạm vào giá thể rễ không bị lung lay khiến bị thui rễ. Thường thì trồng vào chậu phải trồng nổi thân. Không nên trồng chìm củ vì sẽ rất dễ gây bị bệnh và bị thối. Giữ được độ ẩm tốt để cây ra rễ nhanh giữ chặt gốc. Loại này thường trồng bằng giá thể vỏ thông trộn lẫn sỏi nhẹ thì giá thể sẽ nhẹ và cây cũng phát triển tốt nhất.

Vì đặc tính cây rất dễ trồng nên việc lựa chọn giá thể để trồng cây cũng rất dễ ràng.

Chăm sóc cây lan Kiếm Trắng Tuyết Ngọc

Lượng sáng:

Vì lượng ánh sáng cần cho cây Hoa Lan Kiếm là khoảng 20%-50% nên để cây phát triển tốt nhất

chúng ta dùng lưới che nắng. Hiện nay có rất nhiều loại lưới dùng để che nắng cho hoa lan được

sản xuất tại Việt Nam hoặc nhập khẩu như của Đài Loan,Thái Lan,Trung Quốc…Khi mới trồng

cây(cây chưa thuần) ánh nắng hợp lí cho cây khoảng dark 700-800 light tức là khoảng 20% ánh

nắng khi nhiệt độ ở trên 30 0 c và 30% ánh nắng khi nhiệt độ ở dưới 30 0 c. Khi cây thuần tức là chúng đã

bám rễ và khỏe mạnh, bạn chỉ cần để cây dưới lượng ánh nắng trung bình là khoảng 20% là cây

có thể phát triển khỏe mạnh quanh năm.

Tưới nước:

Quan trọng nhất là tưới nước tưới thể nào để cây đủ ẩm vừa đủ độ sạch lá để cây quanghợp tốt, giá thể thông thoáng để bộ rễ phát triển mạnh, ít nhất mỗi ngày phải tưới 1 lần trời nắng nhiệt độ ở dưới 30 0 c và tưới 2 lần

khi nắng nóng khi nhiệt độ ở trên 30 0 c.Đối với cây trong chậu thì nên trồng loại giá thể thoát nước tốt để cây ko bị úng dễ gây ra sâu bệnh. Nhưng cũng phải chọn loại giá thể vừa thoát nước nhưng vẫn giữ được độ ẩm để cây phát triển tốt

Chú ý không nên tưới mạnh quá khiến lá cây và thân cây bị dập hoặc tổn thương rất dễ

gây bệnh cho cây. Tốt nhất dùng vòi nhiều chế độ để thay đổi khi tưới xa hoặc gần và mua 1 chiếc

máy đo nhiệt độ,độ ẩm cho vườn.

Điều kiện để cây hoa lan Kiếm Trắng Tuyết Ngọc

Dù cây trồng đã thuần hay chưa thì chỉ cần đáp ứng đủ độ

ẩm, ánh sáng, lưu thông gió để rễ cây phát triển tốt. Và đặc biệt khi cây ra mầm phải chăm sóc tốt để cây phát triển hơn thì cuối năm cây trưởng thành mới có thể ra hoa được. Nên để cây ra chỗ thoáng gió giúp cây hấp thụ ánh nắng và phát triển

để cây ra hoa bình thường.

Chú ý cây tầm 5 thân trở lên sẽ nở hoa bình thường, cây rất dễ ra hoa.

Bón phân và phun thuốc cho lan Kiếm Trắng Tuyết Ngọc

Thời điểm bón cho cây vào thời điểm cây đã và đang

phát triển bộ rễ, có thể dùng phân tan chậm hoặc dùng phân bón qua lá. Bón phân cho cây quanh

năm nhưng chủ yếu vào mùa phát triển mạnh về lá và thân giúp cho cây khỏe mạnh và nhanh lớn

vào dịp đầu năm chúng tích lũy đủ lực để phát triển. Những tháng mưa nhiều nên dừng bón vì

nước mưa đã có rất nhiều chất thúc đẩy cây phát triển tốt. Những tháng còn lại để giữ cho cây

phát triển đồng đều tăng sức đề kháng và chống lại bệnh tật.

Thời điểm phun thuốc phòng và trừ bệnh cho cây Kiếm Trắng Tuyết Ngọc

Để cây hấp thụ thuốc tốt nhất

thì nên phun vào buổi chiều mát và không có mưa. Mỗi tháng nên phun một lần để phòng bệnh

cho lan. Vào những tháng mưa nhiều nên phun liên tục từ 10-15 ngày 1 lần. Khi thấy thời tiết sắp

mưa dài ngày là phải phun trước phòng để tránh trường hợp cây bị bệnh.

Hoa Lan Kiếm muốn nở nhanh thì để vào chỗ độ ẩm cao, tránh mưa, kín gió, thắp đèn để ánh

sáng suốt cả ngày và đêm để cây hoa phát triển nhanh hơn. Tưới nước và phun kèm phân để thúc

đẩy cây hoa phát triển. Còn muốn giữ hoa lâu tàn nên để vào chỗ độ ẩm lớn tránh mưa, làm giảm

ánh sáng, tưới nước ít hơn và không phun phân thuốc. Khi tưới nước tránh tưới vào hoa, nên tưới

vào xung quanh để cây dùng rễ và lá hấp thụ hơi nước.

Vì tính đặc thù của cây lan kiếm là nở rất nhanh và rất nhanh tàn nên mọi người chú ý khi cây bắt đầu nở cần tưới nhiều nước, che bớt ánh sang để cây giữ hoa được đẹp nhất.

Lan Thanh Đạm Tuyết Ngọc

Tên Việt: Thanh Đạm Tuyết Ngọc, Cam Đạm

Tên khoa học: Coelogyne mooreana, Rolfe, Sander 1907

Đồng danh: Coelogyne mooreana f. alba Roeth & O, Gruss 2001; Coelogyne psectrantha, Gagnep 1930

Lan sống phụ sinh, thân hành giả hình trụ, đầu mang 2 lá có phiến hình thuôn mác ngược, thót nhọn ở đầu, thót dài ở gốc, dài 12 – 16cm, rộng 2,5cm, mang 5 gân dọc. Cụm hoa có cuống dài 2cm, chỉ mang một hoa to màu trắng, với các vân vằn nâu. Các lá đài huình thuôn, dài 4,6 – 4,8cm, rộng 1,3cm, có 7 gân vườn hợp. 

Cánh hoa hình giải, dài 4,7cm, rộng 0,5cm, có 5 gân đầu nhọn. Cánh môi hình trứng thuôn, dài 4cm, rộng 2,5cm, chia 3 thùy, 2 thùy bên không xòe ra, hơi hình trứng, có đầu tròn, phần tự do dài 8mm, rộng 7mm, thùy giữa hình trứng có đầu tròn, hơi thót lại ở gốc, mặt trên cánh môi có nhiều nhú xếp thành 3 dải. Trụ dài 2cm. Bầu dài 2cm.

Sinh học: Mùa hoa và qủa chưa thấy rõ.

Nơi sống và sinh thái: Sống bám trên thân và cành thông hay một số cây gỗ khác trong rừng thường xanh mưa mùa ẩm, ở độ cao khoảng 1400 – 2000 m.

Tình trạng: Loài hiếm. Mức độ đe dọa: Bậc R.

Đề nghị biện pháp bảo vệ: Là đối tượng bảo vệ trong thiên nhiên của khu rừng cấm trên núi Langbian và quanh Đà Lạt. Cần gấp rút thu thập cây sống đem về trồng trong vườn thực vật để giữ và nhân giống.

Phân bổ

Thanh Đạm Tuyết Ngọc là một cây đặc hữu của Việt Nam, thường mọc ở Đà Lạt, Nha Trang và Quảng trị, trên cao độ khoảng 1300 thước. Wilhelm Micholitz đã tìm thấy ở ngọn núi Langbiang, gần Đà Lạt và gửi về cho Sander và người con tại St. Albans, Anh Quốc. Cây lan này nở hoa và đoạt giải nhất của Hòang gia (FCC/RHS) vào năm 1905.

Frederick Sander đặt tên Coelogyne moorena để vinh danh F.W. Moore, Giám đốc vườn thảo mộc Glasnevin tại Dublin. Robert Rolfe là người đã mô tả cây lan này trên thông tri của viện thảo mộc Kew, Anh Quốc vào năm 1907 với tên Coelogyne mooreana ‘Brockhurstʼ. Điều lạ lùng nhất là cây lan đẹp và dễ trồng như vậy mà mãi đến năm 1972 nguyệt san Orchid của Hội Hoa Lan Hoa Kỳ và tờ Orchid Digest mới có hình ảnh của cây lan này.

Loài đặc hữu rất hẹp của Việt Nam, mới chỉ gặp được ở điểm lấy mẫu chuẩn thuộc tỉnh Lâm Đồng (Đà Lạt, Lạc Dương: núi Langbian, Đơn Dương).

Chăm sóc

NHIỆT ĐỘ

Mùa hè, ban ngày từ 75-80°F hay 24-27°C và ban đêm vào khoảng 62°F hay 17°C với sự cách biệt giữa ngày và đêm từ 10-14°F hay 6-8°C

Mùa đông ban ngày từ 75-80°F hay 24-27°C và ban đêm 53-55°F hay 12-13°C với sự cách biệt từ 23-25°F hay 13-14°C.

ÁNH SÁNG

Từ 1500-2000 ánh nến (fc) tức là phải để ở chỗ rợp mát từ mùa xuân cho đến mùa thu. Tại môi trường thiên nhiên, mùa đông là mùa cây lan có nhiều ánh nắng hơn, bởi vì các cây cối chung quanh đã bị rụng lá.

ĐỘ ẨM

Mùa hè lan cần độ ẩm thật cao từ 70-80%, mùa đông có thể hạ xuống 40-50%

THOÁNG GIÓ

Lan cần phải thật thoáng gió nếu không sẽ dễ bị nhiễm bệnh.

TƯỚI NƯỚC

Tại Việt Nam, suốt mùa mưa từ tháng 4-6 cây lan lúc nào cũng ướt đẫm và lại rất khô vào mùa đông. Theo quy luật chung, tưới nhiều khi cây non mọc và bớt tưới vào mùa thu khi cây đã ngưng tăng trưởng. Mùa đông chỉ tưới sơ qua hoặc phun nước vào buổi sáng. Khi thấy củ bị nhăn nheo hay lá bị héo, đó là dấu hiệu của sự thiếu nước và thiếu độ ẩm. Trái lại nếu củ lúc nào cũng mập tròn sẽ không ra hoa.

Đừng bao giờ để lan bị khô rễ vào mùa hè và mùa xuân bắt đầu tưới trở lai khi thấy mọc rễ mới hay ra mầm non.

BÓN PHÂN

Bón phân 30-10-10 với dung lượng ¼-½ thìa cà phê cho 4 lít nước và đổi sang 10-30-20 khi bắt đầu mùa thu, hay có thể dùng phân 15-15-15 quanh năm với liều lượng như trên. Lan không ưa bị đọng muối trong chậu, cho nên mỗi tháng cần xả nước một lần cho sạch, tức là tưới như thường lệ và 1-2 giờ sau tưới thêm một lần nữa, rồi mới bón phân. Khi cây mọc mạnh bón mỗi tuần một lần, khi cây ngưng tăng trưởng bón mỗi tháng một lần.

VẬT LIỆU TRỒNG

Các nhà vườn, thường trồng lan Thanh Đạm và nhiều giống lan khác với rêu (sphagnum moss) để bớt phải tưới nước. Loai rêu này chóng mục nên phải thay chậu tối thiểu 2 năm một lần. Nên nhớ: Thanh Đạm không ưa bị đụng chạm đến bộ rễ và chỉ nên thay chậu khi rễ bắt đầu mọc. Nhiều người trồng rất thành công với vật liệu như sau:

70% rễ cây dương sỉ (tree fern), 10% than vụn, 10% đá bọt (perlite), 10% rêu vụn (sphagnum moss).

Bệnh

Bệnh hại trên lan

– Bệnh đen thân cây lan: Do nấm Fusarium sp. gây nên. Phòng trị: Nên tách những cây bị bệnh để riêng và dùng thuốc phòng trừ hay nhúng cả cây vào thuốc trị nấm. Nếu cây lớn hơn thì cắt bỏ phần thối rồi phun thuốc diệt nấm như Carbenzim, Zin,  Zineb 3/2000, Benlat 1/2000, Bendazol.

– Bệnh đốm lá: Do nấm Cercospora sp. gây nên. Bệnh thường phát sinh mạnh trên cây lan Dendrobium sp., gây hại trong mùa mưa ở những vườn lan có độ ẩm cao. Phun thuốc trừ nấm (như trên) Carbenzim + Dipamate: hỗn hợp thuốc hiệu quả cao hay Cadilac.

– Bệnh thán thư: Do nấm Colletotricum sp. gây ra. Bệnh phát triển mạnh vào mùa mưa nên phải phòng trừ trước. Thường cắt bỏ lá vàng rồi phun thuốc diệt nấm 5 – 7 ngày/phun 1 lần: Thio-M, Cabenzim, Bendazol.

– Bệnh thối mềm vi khuẩn: Do vi khuẩn Pseudomonas gladioli gây ra. Vết bệnh có hình dạng bất định, ủng nước, màu trắng đục, thường lan rộng theo chiều rộng của lá. Gặp thời tiết ẩm ướt mô bệnh bị thối úng, thời tiết khô hanh mô bệnh khô tóp có màu trắng xám.

– Bệnh thối nâu vi khuẩn: Do vi khuẩn Erwnia carotovora gây ra. Ban đầu vết bệnh có màu nâu nhạt, hình tròn mọng nước về sau chuyển thành màu nâu đen. Bệnh hại cả thân, lá, mầm làm các bộ phận trên bị thối. Sử dụng Kasumin, dùng 1 trong những hỗn hợp: Saipan + Mexyl; Saipan + Alpine; Mexyl + Alpine để phun phòng trị.

– Bệnh đốm vòng (đốm mắt cua): Do nấm Cercospora resae gây ra.

+Triệu chứng: Vết bệnh là những đốm nhỏ, hình mắt cua, hình trong hơi lõm, ỡ giữa màu nâu nhạt, xung quanh có gờ nổi màu nâu đậm. Bệnh gây hại chủ yếu trên lá bánh tẻ, lá già tạo thành nhiều vết nhỏ li ti làm lá vàng, nhanh rụng.

+ Phòng trừ: Dùng thuốc Topsin M 70 WD hoặc Score 250 ND, Bendazol, Carbenzim, Thio-M.

– Bệnh đốm vòng: Do nấm Alternaria rasae gây ra.

+ Triệu chứng: Vết bệnh hình tròn hoặc hình bầu dục, trên vết bệnh có các vòng đồng tâm khá rõ. Khi gặp thời tiết ẩm ướt, ấm áp, trên vết bệnh thường hình thành một lớp nấm mốc màu đen gồm cành và bào tử phân sinh của nấm gây bệnh. Bệnh thường gây hại trên các lá già, lá bánh tẻ làm lá vàng dễ khô rụng. + Phòng trừ: Sử dụng Daconil 500 SC, Carbenzim + Dipomate, Cadilac.

Sâu hại lan

– Rệp vảy: rệp thường bám trên các thân giả hành còn non. Phòng trị bằng cách: Dùng bàn chải chà xát rồi nhúng cây lan vào dung dịch thuốc Malathion 50 pha loãng, Sagosuper 20EC.

– Bọ trĩ: gây hại chủ yếu trong mùa nắng. Dùng Malathion 5 mg/bình 4 lít nước, phun 1 tuần/lần, phun liên tiếp liên tục trong 3 tuần, Dragon (5cc) + SK99 (20cc)/bình 8 lít.

Tác dụng y học

Chưa có công bố hay nghiên cứu khoa học nào về tác dụng chữa bệnh của hoa lan Thanh Đạm Tuyết Ngọc.

Giá trị kinh tế

Nguồn gen qúy, hiếm và độc đáo. Hoato khá đẹp. Có thể trồng làm cảnh.

Ý nghĩa

Đây là cây lan Thanh đạm, đặc hữu của Việt Nam, nổi tiếng nhất trên thế giới. Coelogyne mooreana được xem là ‘Hoàng hậu’ của nhóm Coelogynes. 

Phân loại

Theo American Orchid Society : C. mooreana có những ‘chủng trồng’ như ‘Brockhurst’ (hoa to, có thêm nhiều vết vàng); ‘Westonbirt’   và nhiều loài ‘lai tạo’ được’cầu chứng’ (registered). Coelogyne pandurata = Lan Thanh đạm Eberhardi (PH Hộ), Thanh đạm Langbian (Trần Hợp).

• Coelogyne assamica Linden & Rachb. f. • Coelogyne brachchyptera Rachb. f. • Coelogyne calcicola Kerr. • Coelogyne cristata Lindl. (Không mọc tại VN) • Coelogyne ecarinata C. Schweinf (Không mọc tại VN) • Coelogyne cumingii Lindl. • Coelogyne dichroantha Gagnep. • Coelogyne eberhardtii Gagnep. • Coelogyne flaccida Lindl. • Coelogyne filipeda Gagnep. • Coelogyne fimbriata Lindl. • Coelogyne fuescens var. brunnea Lindl. • Coelogyne griffithii Hook. f. (Mới) • Coelogyne huettneriana Rachb. f. (Mới) • Coelogyne lactea Rachb. f. (Đồng danh với Coelogyne flaccida) • Coelogyne lawrenceana Rolfe • Coelogyne lentiginosa Lindl. • Coelogyne lockii Avr. • Coelogyne malipoensis Z. H. Tsi • Coelogyne moorena Rolfe • Coelogyne nitida (Wall. Ex Don) Lindl. (Không mọc tại VN) • Coelogyne ovalis  • Coelogyne pallens Ridl. • Coelogyne quadratiloba Gagnep. (Mới) • Coelogyne prolifera Lindl. (Không mọc tại VN) • Coelogyne rigida Par & Rachb. f. • Coelogyne sanderae Krzl. • Coelogyne schultesii S. K. Jain & S. Das (Mới) • Coelogyne stricta (D. Don) Schltr. • Coelogyne tenasserimensis Seidenf. (Mới) • Coelogyne trinervis Lindl. • Coelogyne virescens Rolfe • Coelogyne viscosa Rchb. f. • Coelogyne verrucosa Rachb. f.

Theo danh sách này chúng ta không có 4 cây:

Coelogyne cristata Lindl. Vì cây này mọc ở Bhutan, China, India, Nepal, Thailand Coelogyne ecarinata C. Schweinf, chỉ mọc tại Miến điện Coelogyne nitida (Wall. Ex Don) Lindl. mọc tại Bangladesh, Bhutan, China, India, Laos, Myanmar, Nepal, Thailand

Nhưng lại có thêm 5 cây đó là:

Coelogyne griffithii Hook. f. Coelogyne huettenriana Rchb. f. Coelogyne quadratiloba Gagnep Coelogyne schultesii S. K. Jain & S. Das và Coelogyne tenasserimensis Seidenf.

Quy luật về tên gọi đã ấn định rằng sẽ theo tên nào đươc công bố trước, nhưng hiện nay nhiều người vẫn còn gọi bằng tên đặt sau chỉ được coi là đồng danh (synonym)

Thanh Đạm Tuyết Ngọc (Coelogyne Mooreana, Rolfe)

Kể từ khi mượn được cuốn Orchids of Indochina do nhà ngoại giao và chuyên gia về hoa lan Gunnar Seidenfaden viết, tôi say mê tìm hiểu về những cây hoa lan của Việt nam.

Thanh Đạm Tuyết Ngọc (Coelogyne mooreana, Rolfe)

Vào khoảng năm 1992-1993 sách vở về hoa lan Việt Nam quá hiếm, Internet chưa mấy phổ thông, muốn có cuốn sách kể trên phải mua với gần 500 US$ tại Anh Quốc. Hỏi mượn, thư viện thành phố Yorba Linda không có. Người quản thủ nói nếu muốn, họ có thể mượn ở nơi khác, nhưng phải trả trước 18$ cước phí. Hơn một tuần sau điện thoại cho biết sách đã về và phải trả lại trong vòng một tháng. Muốn có cuốn sách quý trong tay, tôi không ngần ngại mang ngay ra tiệm chuyên sao chép lai các văn bản (photo copy).

Nhân viên họ không nhận làm việc này, nhưng chỉ cho tôi cách xử dụng máy để có thể in 2 trang vào một tờ giấy lớn khổ 11×17″. Tôi phải đứng hơn 2 giờ và phải trả mất gần 60$ mới sao được 502 trang sách. Mang tập giấy dầy cộm về tôi mất thêm gần 2 giờ để gấp giấy và đục lỗ sau đó bỏ vào 2 tập bìa cứng.

Khi mở sách ra, tình cờ tôi mở đúng trang 113 và 114 với hình vẽ cây lan Coelogyne moorena với giòng chữ phía dưới Distribution: Endemic(Đặc hữu). Tìm hiểu về cây lan này chỉ thấy những giòng chữ viết tắt cho biết là theo tài liệu của Kew 1907-1910, Ridley 1921, Gagnepain 1934, Guillamin 1958, Seidenfaden 1975, Ban & Huyen 1983, Averyanov 1988-1990. Cây lan này có đồng danh là Coelogyne psectranthavà Coelogyne sandriana. và những địa danh đã tìm thấy cây lan như: Langbian, Đà Lạt, Nha Trang, Quảng Trị.

Căn cứ vào những điều ghi trong cuốn sách, tôi lập một danh sách các cây lan Việt Nam và bắt đầu sưu tập những cây lan này. Cây lan Việt đầu tiên mua được là cây Dendrobium chrysotoxum, nhưng cây này các nước ở Á Châu đều có cả.

Khoảng năm 1999 tại hội lan quốc tế Fascination of Orchid International, tại South Coast Plaza một gian hàng của người Việt: anh chị Tấn, có bán một cây lan hoa trắng, trồng trong một chậu nhỏ 4″ (10 cm). Thấy cây lan lạ, tôi vội cầm lên xem, bảng tên ghi: Coel. mooreana “Westonbirt” FCC/RHS. Đúng là cây lan của quê hương rồi. Thấy giá tiền đề 40$, không ngần ngừ tôi móc tiền ra trả, nhưng chị Tấn nói:

Nếu là cây lan Việt nam, cháu xin tặng bác.

Tôi thể không nhận như vậy được và sau một hồi đưa đi, đẩy lại chị Tấn đành nhận số tiền nhưng có vẻ không vui:

Có bao nhiêu đâu mà bác phải quan tâm như vậy.

Tìm hiểu tôi mới biết cây lan Coelogyne mooreana có tên là Thanh Đạm Tuyết Ngọc, thường mọc ở Đà Lạt, Nha Trang và Quảng Trị, trên cao độ khoảng 1300 m. Cây lan này và cây Cymbidium sanderae là 2 cây đặc hữu của Việt Nam (xin xem chi tiết trong bài Wilhelm Micholitz) đã được Wilhelm Micholitz đã tìm thấy ở ngọn núi Langbian, gần Đà Lạt và gửi về cho Frederic Sander cho một thương gia chuyên về hoa lan tại St. Albans, Anh quốc. Cây lan này nở hoa và đoạt giải FCC/RHS (giải nhất của hội Cây Cảnh Hoàng Gia Anh Quốc) vào năm 1905. Frederick Sander đặt tên Coelogyne moorena để vinh danh F. W. Moore, Giám đốc vườn thảo mộc Glasnevin tại Dublin. Robert Rolfe là người đã mô tả cây lan này trên thông tri của viện thảo mộc Kew, Anh quốc vào năm 1907 với tên Coelogyne mooreana ‘Brockhurst’

Theo McAllen Orchid Society (MIOS Journal) HG Alexander một người trồng lan cho công tước George Holford, Westonbirt, Gloucestershire, Anh Quốc đã mang cây lan với tên Coelogyne mooreana “Westonbirst” dự thí và đoạt giải CCC/RHS vào năm 1908. Nhưng cũng có tin trên net năm 1908, cây lan Coelogyne moerana “Westonbirst” lại thắng giải FCC/ RHS. Không biết tin này có phải là một sự nhầm lẫn hay không?

Cây lan tôi mua được, chỉ nở hoa vào năm đó và chẳng bao giờ ra nụ, đơm bông, cũng không hề tăng truởng dù rằng đã 10 năm qua bởi vì Placentia, nơi tôi cư ngụ mùa hè quá nóng trung bình là 90-95°F (32-35°C). Củ già teo dần, củ mới càng ngày càng nhỏ, tuy vậy tôi vẫn còn cố giữ dù sao cũng là kỷ vật của cố hương.

Năm 2008 tại Hội Hoa Lan quốc tế Fascination of International Orchid Show, Costa Mesa có một gian hàng có bầy bán một số chậu lan Thanh Đạm Tuyết Ngoc Coelogyne mooreana “Brockhurst” FCC/RHS tuyệt đẹp với giá 80-90$ một chậu 6″ (12.5 cm) và 120-140$ một chậu 8″ (20 cm). Những chùm hoa trắng tinh như tuyết, nhị vàng cam tươi sáng, hương thơm phảng phất quen thuộc như mùi hoa dành dành (gardenia) thực là quyến rũ. Khi biết đó là cây lan đặc hữu của quê hương, các hội viên Hội hoa lan người Việt đua nhau mua cho bằng hết.

Có một điều đáng chú ý là các sách vở tài liệu đều nói là cây lan này chỉ nở hoa vào mùa Xuân và đầu mùa Hạ, nhưng tại quận Cam Hoa Kỳ những cây lan Thanh Đạm Tuyết Ngọc liên tiếp nở hoa từ tháng 2 dương lịch cho đến tháng 12 cuối năm nên luôn luôn có mặt trên bàn triển lãm hàng tháng và thường thắng giải Lan Việt Đẹp Nhất trong tháng, nhất lá cây lan của Lê kim Nhung và Nguyễn trần Ngữ trong các hình ảnh dưới đây:

AC Thường & Ngọc và cây lan đấu giá năm 2008 Cao ánh Tuyết 4-2008 Lê kim Nhung & Cao ánh Tuyết 2010 Nguyễn trần Ngữ 2-2010 Lê Kim Nhung 5-2010 Ngô Tạo 8-2010 Nguyễn thị Nguyệt 8-2010 Lê Kim Nhung 9-2010 Đặng hoàng Mai 10-2010 Lê kim Nhung 11-2010 Nguyễn Trần Ngữ 10-2010 Nguyễn Trần Ngữ 11-2010

Năm 2008 tôi cũng mua một cây Coelogyne “Brockhurst” FCC/RHS, bạn hàng để cho với giá đặc biệt 100$ một chậu 8″ (20 cm) với 7 cành hoa vừa mãn khai và 5 chùm hoa còn đương phong nhuỵ. Nhưng số phận cây lan này cũng như số phận hẩm hiu của cây Coelogyne mooreana “Westonbirst”. Sau khi hoa tàn nhị rữa, lá cây đốm vàng, đầu lá cháy nâu, củ teo lại, mầm mới vừa nẩy ra đã bị những trận cuồng phong Santa Ana đem theo hơi nóng từ sa mac Mojave đổ về, sau đó mùa hè đổ xuống vùng Placentia những cơn nóng như lửa đốt cho nên cây lan của tôi tuy không chết nhưng chẳng ra hoa.

Nhưng tôi chắc chắn rằng cây lan này sẽ tồn tại trên đất Hoa Kỳ, bởi vì ngoài những vườn lan thương mại còn có khá nhiều hội viên Hội Hoa Lan Việt Nam đã biết cách nuôi trồng. Những người này hiện cư ngụ tại các thành phố chung quanh vùng Tiểu Saigon, nơi này gần biển cho nên vào mùa hè khí hậu mát mẻ ít khi lên tới 90°F (32°F) rất khá thích hợp với loài lan như Coelogyne, Cymbidium vốn xuất xứ từ núi Lâm Viên (Langbian) tại miền cao nguyên Đà Lạt.

Bằng chứng là trong cuộc triển lãm Ocean Orchids Show tại Westminster Mall ngày 28-29-30 tháng 1-2011 vừa qua, cây Thanh Đạm Tuyết Ngọc Coelogyne moorenea của bà Nguyễn Trần Ngữ lại đoạt giải danh dự trong cuộc thi này.

Tìm Hiểu Lan Thanh Đạm Tuyết Ngọc Hình Ảnh Hoa &Amp; Cách Trồng

Thanh Đạm Tuyết Ngọc, Cam Đạm

Coelogyne moorena, Rolfe, Sander 1907

Đồng danh: Coelogyne mooreana f. alba Roeth & O, Gruss 2001; Coelogyne psectrantha, Gagnep 1930

Mô tả lan Thanh Đạm Tuyết Ngọc

Thanh Đạm Tuyết Ngọc là một cây đặc hữu của Việt Nam, thường mọc ở Đà Lạt, Nha Trang và Quảng Trị, trên cao độ khoảng 1300 m. Wilhelm Micholitz đã tìm thấy ở ngọn núi Langbian, gần Đà Lạt và gửi về cho Sander và người con tại St. Albans, Anh quốc. Cây lan này nở hoa và đoạt giải nhất của Hòang gia (FCC/RHS) vào năm 1905. Frederick Sander đặt tên Coelogyne moorena để vinh danh F. W. Moore, Giám đốc vườn thảo mộc Glasnevin tại Dublin. Robert Rolfe là người đã mô tả cây lan này trên thông tri của viện thảo mộc Kew, Anh quốc vào năm 1907 với tên Coelogyne mooreana ‘Brockhurst’. Điều lạ lùng nhất là cây lan đẹp và dễ trồng như vậy mà mãi đến năm 1972 nguyệt san Orchid của Hội Hoa Lan Hoa Kỳ và tờ Orchid Digest mới có hình ảnh của cây lan này.

mọc từng cụm. Củ cao 5-7 cm có 2 chiếc lá mềm, xanh bóng dài từ 30- 40 cm, rộng 2.5- 3.5 cm. Dò hoa mọc từ giữa mầm non, lên thẳng cao 25-40 cm mang theo 4-8 hoa ngang từ 6-10 cm. Hoa trắng nhị vàng cam có hương thơm, nở vào mùa xuân.

Điều kiện sinh sống lan Thanh Đạm Tuyết Ngọc

Mùa hè, ban ngày từ 75-80°F hay 24-27°C và ban đêm vào khoảng 62°F hay 17°C với sự cách biệt giữa ngày và đêm từ 10-14°F hay 6-8°C

Mùa đông ban ngày từ 75-80°F hay 24-27°C và ban đêm 53-55°F hay 12-13°C với sự cách biệt từ 23-25°F hay 13-14°C.

Từ 1500-2000 ánh nến (fc) tức là phải để ở chỗ rợp mát từ mùa xuân cho đến mùa thu. Tại môi trường thiên nhiên, mùa đông là mùa cây lan có nhiều ánh nắng hơn, bởi vì các cây cối chung quanh đã bị rụng lá.

Mùa hè lan cần độ ẩm thật cao từ 70-80%, mùa đông có thể hạ xuống 40-50%

Lan cần phải thật thoáng gió nếu không sẽ dễ bị nhiễm bệnh.

Cách trồng lan Thanh Đạm Tuyết Ngọc

Tại Việt Nam, suốt mùa mưa từ tháng 4-6 cây lan lúc nào cũng ướt đẫm và lại rất khô vào mùa đông. Theo quy luật chung, tưới nhiều khi cây non mọc và bớt tưới vào mùa thu khi cây đã ngưng tăng trưởng. Mùa đông chỉ tưới sơ qua hoặc phun nước vào buổi sáng. Khi thấy củ bị nhăn nheo hay lá bị héo, đó là dấu hiệu của sự thiếu nước và thiếu độ ẩm. Trái lại nếu củ lúc nào cũng mập tròn sẽ không ra hoa.

Đừng bao giờ để lan bị khô rễ vào mùa hè và mùa xuân bắt đầu tưới trở lai khi thấy mọc rễ mới hay ra mầm non.

Bón phân 30-10-10 với dung lượng ¼-½ thìa cà phê cho 4 lít nước và đổi sang 10-30-20 khi bắt đầu mùa thu, hay có thể dùng phân 15-15-15 quanh năm với liều lượng như trên. Lan không ưa bị đọng muối trong chậu, cho nên mỗi tháng cần xả nước một lần cho sạch, tức là tưới như thường lệ và 1-2 giờ sau tưới thêm một lần nữa, rồi mới bón phân. Khi cây mọc mạnh bón mỗi tuần một lần, khi cây ngưng tăng trưởng bón mỗi tháng một lần.

VẬT LIỆU TRỒNG

Các nhà vườn, thường trồng lan Thanh Đạm và nhiều giống lan khác với rêu (sphagnum moss) để bớt phải tưới nước. Loai rêu này chóng mục nên phải thay chậu tối thiểu 2 năm một lần. Nên nhớ: Thanh Đạm không ưa bị đụng chạm đến bộ rễ và chỉ nên thay chậu khi rễ bắt đầu mọc. Nhiều người trồng rất thành công với vật liệu như sau:

70% rễ cây dương sỉ (tree fern), 10% than vụn, 10% đá bọt (perlite), 10% rêu vụn (sphagnum moss).

Kể từ khi mượn được cuốn Orchids of Indochina do nhà ngoại giao và chuyên gia về hoa lan Gunnar Seidenfaden viết, tôi say mê tìm hiểu về những cây hoa lan của Việt nam.

Vào khoảng năm 1992-1993 sách vở về hoa lan Việt Nam quá hiếm, Internet chưa mấy phổ thông, muốn có cuốn sách kể trên phải mua với gần 500 US$ tại Anh Quốc. Hỏi mượn, thư viện thành phố Yorba Linda không có. Người quản thủ nói nếu muốn, họ có thể mượn ở nơi khác, nhưng phải trả trước 18$ cước phí. Hơn một tuần sau điện thoại cho biết sách đã về và phải trả lại trong vòng một tháng. Muốn có cuốn sách quý trong tay, tôi không ngần ngại mang ngay ra tiệm chuyên sao chép lai các văn bản (photo copy). Nhân viên họ không nhận làm việc này, nhưng chỉ cho tôi cách xử dụng máy để có thể in 2 trang vào một tờ giấy lớn khổ 11×17″. Tôi phải đứng hơn 2 giờ và phải trả mất gần 60$ mới sao được 502 trang sách. Mang tập giấy dầy cộm về tôi mất thêm gần 2 giờ để gấp giấy và đục lỗ sau đó bỏ vào 2 tập bìa cứng.

Khi mở sách ra, tình cờ tôi mở đúng trang 113 và 114 với hình vẽ cây lan Coelogyne moorena với giòng chữ phía dưới Distribution: Endemic (Đặc hữu). Tìm hiểu về cây lan này chỉ thấy những giòng chữ viết tắt cho biết là theo tài liệu của Kew 1907-1910, Ridley 1921, Gagnepain 1934, Guillamin 1958, Seidenfaden 1975, Ban & Huyen 1983, Averyanov 1988-1990. Cây lan này có đồng danh là Coelogyne psectrantha và Coelogyne sandriana. và những địa danh đã tìm thấy cây lan như: Langbian, Đà Lạt, Nha Trang, Quảng Trị.

Căn cứ vào những điều ghi trong cuốn sách, tôi lập một danh sách các cây lan Việt Nam và bắt đầu sưu tập những cây lan này. Cây lan Việt đầu tiên mua được là cây Dendrobium chrysotoxum, nhưng cây này các nước ở Á Châu đều có cả.

Khoảng năm 1999 tại hội lan quốc tế Fascination of Orchid International, tại South Coast Plaza một gian hàng của người Việt: anh chị Tấn, có bán một cây lan hoa trắng, trồng trong một chậu nhỏ 4″ (10 cm). Thấy cây lan lạ, tôi vội cầm lên xem, bảng tên ghi: Coel. mooreana “Westonbirt” FCC/RHS. Đúng là cây lan của quê hương rồi. Thấy giá tiền đề 40$, không ngần ngừ tôi móc tiền ra trả, nhưng chị Tấn nói:

Nếu là cây lan Việt nam, cháu xin tặng bác.

Tôi thể không nhận như vậy được và sau một hồi đưa đi, đẩy lại chị Tấn đành nhận số tiền nhưng có vẻ không vui:

Có bao nhiêu đâu mà bác phải quan tâm như vậy.

Theo McAllen Orchid Society (MIOS Journal) HG Alexander một người trồng lan cho công tước George Holford, Westonbirt, Gloucestershire, Anh Quốc đã mang cây lan với tên Coelogyne mooreana “Westonbirst” dự thí và đoạt giải CCC/RHS vào năm 1908. Nhưng cũng có tin trên net năm 1908, cây lan Coelogyne moerana “Westonbirst” lại thắng giải FCC/ RHS. Không biết tin này có phải là một sự nhầm lẫn hay không?

Cây lan tôi mua được, chỉ nở hoa vào năm đó và chẳng bao giờ ra nụ, đơm bông, cũng không hề tăng truởng dù rằng đã 10 năm qua bởi vì Placentia, nơi tôi cư ngụ mùa hè quá nóng trung bình là 90-95°F (32-35°C). Củ già teo dần, củ mới càng ngày càng nhỏ, tuy vậy tôi vẫn còn cố giữ dù sao cũng là kỷ vật của cố hương.

Năm 2008 tại Hội Hoa Lan quốc tế Fascination of International Orchid Show, Costa Mesa có một gian hàng có bầy bán một số chậu lan Thanh Đạm Tuyết Ngoc Coelogyne mooreana “Brockhurst” FCC/RHS tuyệt đẹp với giá 80-90$ một chậu 6″ (12.5 cm) và 120-140$ một chậu 8″ (20 cm). Những chùm hoa trắng tinh như tuyết, nhị vàng cam tươi sáng, hương thơm phảng phất quen thuộc như mùi hoa dành dành (gardenia) thực là quyến rũ. Khi biết đó là cây lan đặc hữu của quê hương, các hội viên Hội hoa lan người Việt đua nhau mua cho bằng hết.

Có một điều đáng chú ý là các sách vở tài liệu đều nói là cây lan này chỉ nở hoa vào mùa Xuân và đầu mùa Hạ, nhưng tại quận Cam Hoa Kỳ những cây lan Thanh Đạm Tuyết Ngọc liên tiếp nở hoa từ tháng 2 dương lịch cho đến tháng 12 cuối năm nên luôn luôn có mặt trên bàn triển lãm hàng tháng và thường thắng giải Lan Việt Đẹp Nhất trong tháng.

Năm 2008 tôi cũng mua một cây Coelogyne “Brockhurst” FCC/RHS, bạn hàng để cho với giá đặc biệt 100$ một chậu 8″ (20 cm) với 7 cành hoa vừa mãn khai và 5 chùm hoa còn đương phong nhuỵ. Nhưng số phận cây lan này cũng như số phận hẩm hiu của cây Coelogyne mooreana “Westonbirst”. Sau khi hoa tàn nhị rữa, lá cây đốm vàng, đầu lá cháy nâu, củ teo lại, mầm mới vừa nẩy ra đã bị những trận cuồng phong Santa Ana đem theo hơi nóng từ sa mac Mojave đổ về, sau đó mùa hè đổ xuống vùng Placentia những cơn nóng như lửa đốt cho nên cây lan của tôi tuy không chết nhưng chẳng ra hoa.

Nhưng tôi chắc chắn rằng cây lan này sẽ tồn tại trên đất Hoa Kỳ, bởi vì ngoài những vườn lan thương mại còn có khá nhiều hội viên Hội Hoa Lan Việt Nam đã biết cách nuôi trồng. Những người này hiện cư ngụ tại các thành phố chung quanh vùng Tiểu Saigon, nơi này gần biển cho nên vào mùa hè khí hậu mát mẻ ít khi lên tới 90°F (32°F) rất khá thích hợp với loài lan như Coelogyne, Cymbidium vốn xuất xứ từ núi Lâm Viên (Langbian) tại miền cao nguyên Đà Lạt.

Bằng chứng là trong cuộc triển lãm Ocean Orchids Show tại Westminster Mall ngày 28-29-30 tháng 1-2011 vừa qua, cây Thanh Đạm Tuyết Ngọc Coelogyne moorenea của bà Nguyễn Trần Ngữ lại đoạt giải danh dự trong cuộc thi này.

2-2011, BÙI XUÂN ĐÁNG, hoalanvietnam.org

Tìm hiểu về lan Thanh Đạm Tuyết Ngọc; chúng tôi tổng hợp