Top 11 # Xem Nhiều Nhất Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc Cây Keo Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Vitagrowthheight.com

Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc Cây Keo

+ Vụ xuân trồng xong trước tháng 4

+ Vụ thu trồng xong trước 15/11

2. Mật độ trồng rừng keo lai:

1600-2000 cây/ ha, hàng cách hàng 3 m, cây cách cây 2 m.

3. Chuẩn bị đất trồng:

Nơi đất dốc < 1500, nếu có điều kiện nên cày máy (cày ngầm) toàn diện tích, sau đó đào hố kích thước 40 x 40 x 40 cm.

4. Bón lót và xan lấp hố

Bón lót cho mỗi hố 3 kg phân chuồng hoai +200 g NPK. Đập đất tơi nhỏ, loại bỏ đá, rễ cây, tạp vật khác, lấp 1/2 hố. Trộn đều phân chuồng với NPK, bỏ vào hố, dùng cuốc xáo trộn đất, sau đó lấp đất đầy hố.

Xan lấp hố và bón lót phân phải hoàn thành ít nhất 15 ngày trước khi trồng cây.

5. Trồng cây

+ Đào ở chính tâm hố một lỗ sâu hơn chiều cao bầu, rạch nát vỏ bầu, đặt bầu cây giống keo lai vào đúng vị trí tâm hố sao cho thật ngay ngắn và cây con thẳng đứng. Dùng đất tơi nhỏ lấp cao hơn bầu hom 2-3 cm và chèn vừa đủ chặt. Các động tác trồng cây phải thực hiện hết sức nhẹ nhàng để tránh gãy cây, vỡ bầu, dập cổ rễ.

+ Trồng dặm: Sau khi trồng một tháng, tiến hành kiểm tra toàn bộ rừng trồng, nếu cây bị hư hỏng hoặc chết phải tiến hành trồng dặm lại, chỉnh sửa những cây nghiêng bị đổ.

6. Chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ rừng và phòng trừ sâu hại

Cây keo lai khi mới trồng còn thấp dễ bị cỏ dại lấn áp. Rừng trồng keo lai phải chăm sóc cẩn thận trong 3 năm đầu.

+ Chăm sóc nuôi dưỡng

Chăm sóc năm thứ nhất:

– Chăm sóc 2 lần trước mùa sinh trưởng.

Lần 1, tiến hành làm sạch cỏ, xới đất xung quanh gốc sâu 15-20 cm, vun đất đầy gốc cao 5-10 cm, đường kính xung quanh gốc rộng 0,8-1m. Phát dọn sạch dây leo, bụi rậm, đào hai rãnh sâu 20 cm, dài 30 cm đối diện nhau và cách gốc 25 cm. Bón thúc 2kg phân chuồng + 100g NPK. Trộn đều phân với đất nhỏ, bỏ đều 2 rãnh rồi lấp đầy rãnh.

Lần 2, tiến hành tương tự lần một nhưng không bón phân .

Chăm sóc năm thứ 2:

Lần 1, làm sạch cỏ, xới đất xung quanh gốc sâu 20cm, vun đất đắp đầy gốc. Đào hai rãnh sâu 20 cm, dài 30 cm đối diện nhau, lệch với hai rãnh đã đào lần trước và cách gốc cây 35 cm để bón thúc sinh trưởng cho cây. Bón thúc 2 kg phân chuồng +100g NPK trộn đều phân với đất nhỏ, bỏ đều cho 2 rãnh rồi lấp đầy rãnh.

Lần 2, chăm sóc như lần một nhưng không bón phân, cần tránh xới xáo rãnh đã bón phân, phát sạch dây leo bụi rậm.

Chăm sóc năm thứ 3:

Phát sạch dây leo bụi rậm, chỉnh sửa cây làm cỏ vun gốc, trợ lực cho những cây sinh trưởng chậm.

Tỉa cành: Nếu cây có nhiều cành nhánh, cần tỉa bớt những cành thấp, tốt nhất là tỉa cành khi mới nhú.

Dùng dao, kéo sắc để cắt sát gốc cành tỉa.

7. Bảo vệ rừng và phòng trừ sâu hại

Rừng trồng keo lai phải được bảo vệ chu đáo cho đến khi thu hoạch. Thường xuyên tuần tra canh gác để xác định lửa rừng, xung quanh lô trồng rừng phải có băng cây xanh rộng từ 8-10m để phòng, chống cháy rừng.

8. Thu hoạch

Rừng keo lai trồng đúng kĩ thuật thâm canh: chọn giống tạo cây con, trồng, chăm sóc quản lý bảo vệ chu đáo, sau 7-8 năm có thể cho thu hoạch gỗ để làm nguyên liệu chế biến bột giấy.

Năng suất tăng trưởng rừng trồng keo lai hiện tại đạt 15-20 m3/ ha/ năm ở chu kì 7-8 năm, và đạt khối lượng 120-160 m3/ ha/ năm sau trồng 7-8 năm (cả vỏ).

Sau 15 năm trồng rừng keo lai có thể khai thác chọn để làm gỗ gia dụng, xây dựng.

Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc Cây Keo Dậu

Hoa có màu vàng kem hình cầu. Quả dẹt dài 13-18cm, ra thành chùm có từ 15-30 hạt, quả khi chín tự tách vỏ văng hạt ra ngoài, hạt màu nâu có lớp vỏ sừng cứng không thấm nước. Rễ có thể đâm sâu từ 2,5-4m.

Keo dậu được nhiều nước nhiệt đới và bán nhiệt đới trồng làm cây thức ăn cho chăn nuôi. Năng suất ngọn lá (50-70 cm) biến động từ 45-65 tấn/ha, tuỳ thuộc vào giống. Hàm lượng chất dinh dưỡng chứa trong ngọn lá tươi bao gồm: vật chất khô 25-28%, hàm lượng protein thô 22-23%, khoáng tổng số khá cao 10-11.5%. Một số giống có chứa hàm lượng mimosine từ 2.5-3.7%.

phân bố lên đến độ cao trên 1000m nhưng không chịu được sương muối. Keo dậu thích hợp nhất với nhiêt độ không khí 25-30 Leuceana leucocephala 0C, là cây ưa ẩm nhưng đất phải thoát nước, thoáng khí. Thích nghi trong phạm vi lượng mưa từ 650-3000mm/năm. Yêu cầu thành phần hóa học đất là trung tính, pH trên 5,2, giàu lân và canxi. Trên đất trung tính, giàu lân và canxi, giàu mùn, thoáng khí, thoát nước Keo dậu cho năng suất cao và thảm bền ổn định lên tới trên 10 năm.

Thời vụ gieo hạt tốt nhất trong tháng 3 đầu tháng 4 khi nhiệt độ trung bình không khí trên 25Thời vụ trồng: 0 C. Trồng cây con thời vụ kéo dài từ tháng 5 đến tháng 8.

Chuẩn bị đất Trồng thuần trên diện tích lớn nên diệt cỏ dại bằng thuốc diệt cỏ tiền nẩy mầm. Cày sâu 20-25cm, bừa kỹ 2-3 lần, ở nơi không bừa được thì dùng cuốc, vồ đập nhỏ đất và san phẳng. Những nơi không cày bừa được thì cuốc hốc hoặc đào rãnh. Rạch hàng theo hướng đông tây, lòng rãnh sâu ít nhất 20 cm. Tuỳ theo địa hình và mục đích trồng thiết kế rãnh/hàng cho phù hợp. Trồng thuần trên ruộng bằng phẳng nên rạch hàng sâu 15-17 cm. Khoảng cách hàng cách hàng 70-100cm, nên đào rãnh thì rãnh sâu 20-30cm, đất dốc nên đào rãnh dày nhằm trồng băng cây dày để chống xói mòn đất.

Số lượng phân bón Keo dậu là cây có bộ rễ rất khoẻ và ăn sâu nên khi bón phân yêu cầu bón toàn bộ phân hữu cơ, phân lân và phân kali được bón lót vào rãnh, lấp kín đất dày 5-7 cm trước khi trồng.

Hạt giống sau khi được xử lý gieo trực tiếp xuống rãnh đã được bón lót phân. Mật độ gieo 35-40cm một hốc, mỗi hốc gieo từ 2-3 hạt.

Dùng đất bột mịn trộn đều với phân hữu cơ hoai mục đạt độ ẩm 80% nhồi đầy, chặt vào trong bầu nilon đã chuẩn bị sẵn, xếp bầu vào nơi thoáng, thuận tiện cho chăm sóc. Hạt giống sau khi được sử lý gieo mỗi bầu 2 hạt (hình 3).

Khi cây đạt độ cao 15-20 cm đem trồng, mật độ trồng 15-20cm một hốc, mỗi hốc 1 bầu. Trước khi đặt cây xuống hốc phải cắt bỏ túi bầu

Chăm sóc thảm cỏ Sau khi gieo hạt 7-10 ngày kiểm tra độ nẩy mầm của hạt giống, sau 15 ngày cần làm cỏ đợt 1, 20-30 ngày sau đó làm cỏ 2 , bón thúc 20 kg đạm ure cho cây con.

Sau 2 tháng cây con mọc khoẻ, nếu còn cỏ dại nhiều cần xới cỏ tạo điều kiện cho keo dậu phát tán lấn át cỏ dại.

Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc Keo Lai

Từ khi hạt nẩy mầm tới hơn 1 tháng hình thái lá cũng biến đổi theo 3 giai đoạn lá mầm, lá thật và lá giả. Lá giả mọc cách tồn tại mãi. Chiều rộng lá hẹp hơn chiều rộng lá keo tai tượng nhưng lớn hơn chiều rộng lá keo lá tràm.

Hoa tự bông 5-6 hoa/1 hoa tự vàng nhạt mọc từng đôi ở nách lá. Quả đậu dẹt, khi non thẳng khi già cuộn hình xoắn ốc. Mùa hoa tháng 3-4, quả chín tháng 7-8. Vỏ quả cứng, khi chín màu xám và nứt. Mỗi quả có 5-7 hạt màu nâu đen, bóng. Một kg hạt có 45.000-50.000 hạt, thu được từ 3-4kg quả.

Keo lai tự nhiên được phát hiện lần đầu vào năm 1972 trong số các cây keo tai tượng trồng ven đường ở Sabah – Malaixia. Ở Thái Lan đầu tiên cũng tìm thấy keo lai được trồng thành đám ở Muak-Lek, Salaburi.

Ở nước ta giống keo lai ở Ba Vì có nguồn gốc cây mẹ là Keo tai tượng xuất xứ Pain-tree bang Queensland – Australia. Cây bố là Keo lá tràm xuất xứ Darwin bang Northern Territory – Ôxtrâylia. Ở Đông Nam Bộ hạt giống lấy từ cây mẹ keo tai tượng xuất xứ Mossman và cây bố Keo lá tràm cũng ở Ôxtrâylia nhưng không rõ xuất xứ. Về cơ bản các giống keo lai đã phát hiện ở nước ta đều có cây mẹ cùng vùng sinh thái giống nhau: Vĩ độ 12 o20′-16 o20′ Bắc, kinh độ 132 o16′-145 o,30′ Đông, lượng mưa 800-1900mm.

Keo lai có sức sinh trưởng nhanh hơn rõ rệt so với loài keo bố mẹ. Với một số dòng keo lai đã chọn lọc trồng thâm canh 3 tuổi đạt trung bình 8,6-9,8m về chiều cao, 9,8-11,4cm về đường kính, 19,4-27,2 m 3/ha/năm về lượng sinh trưởng và 50-77m 3/ha về sản lượng gỗ. Rừng keo lai 7-8 tuổi đạt 150-200m 3 gỗ/ha, có thể nhiều hơn 1,5-2 lần rừng Keo tai tượng và Keo lá tràm.

Keo lai có nhiều hạt và khả năng tái sinh tự nhiên bằng hạt rất mạnh. Rừng trồng 8-10 tuổi sau khi khai thác trắng, đốt thực bì và cành nhánh, hạt nẩy mầm và tự tái sinh hàng vạn cây trên 1 ha. Tuy nhiên không trồng rừng keo lai bằng cây con từ hạt mà phải bằng cây hom.

Áp dụng tieu chuẩn ngành 04TCN 76-2006 – quy trình kỹ thuật nhân giống và trồng rừng keo lai vô tính của Bộ NN&PTNT.

Chỉ được sử dụng cây hom đời F1 của các dòng tốt nhất đã được công nhận là giống quốc gia hay giống tiến bộ kỹ thuật để trồng rừng. Dùng các dòng BV5, BV10, BV16, BV27, BV29, BV32, BV33, BV71, BV73, BV75 cho Ba Vì – Hà Nội, Yên Thành – Nghệ An và những nơi có điều kiện lập địa tương tự; các dòng MA1, (MA)M8 cho Tam Thanh – Phú Thọ, Bình Điền – Thừa Thiên Huế và những nơi có điều kiện lập địa tương tự; các dòng AM2, AM3 cho Bình Điền – Thừa Thiên Huế và những nới có điều kiện lập địa tương tự; các dòng AH1, AH7, TB1, TB3, TB5, TB6, TB7, TB11, TB12, KL2 cho Bình Dương, Đồng Nai và những nơi có điều kiện lập địa tương tự.

Sau khi trồng 3-4 tháng, cắt tạo chồi. Dùng kéo sắc cắt cây ở độ cao 70cm, phun Benlat 0,15% cho ướt cả cây để khử trùng.

Lần tiếp theo: Vào cuối mùa sinh trưởng đốn tạo chồi và trẻ hoá cây giống. Cách cắt đốn tạo chồi như lần đầu. Sau khi cắt đốn xới đất quanh gốc, làm cỏ toàn diện. Bón thúc mỗi cây 50g NPK (5:10:3) hay 100g phân lân hữu cơ vi sinh, vun gốc và tưới đủ ẩm cho cây.

Mùa giâm hom phải thực hiện trước mùa trồng rừng 3 tháng, nếu quá thì phải giảm tưới nước, bón phân để hãm cây. Ở Bắc Bộ giâm hom tháng 4 đến tháng 10, 11. Ở miền Trung và Nam Bộ giâm hom trước mùa mưa 2-3 tháng.

Cắt cành đầu vụ lần đầu cách lần sau 1 tháng, tiếp theo cách 15-20 ngày 1 lần. Cắt xong phải dọn vệ sinh, phun Benlat 0,15% cho ướt cây, bón thúc phân NPK hay phân lân hữu cơ vi sinh như khi đốn tạo chồi và vun xới gốc. Cắt cành lấy hom vào buổi sáng, khi cắt để lại ở phần gốc còn lại trên cây ít nhất 2 đôi lá hoặc 2 chồi ngủ. Dùng dao sắc cắt hom tránh làm dập. Hom dài 6-7cm, có 1-2 lá, cắt bỏ 2/3 diện tích phiến lá, phần gốc hom cắt vát 45 o và nhẵn. Hom cắt xong ngâm vào dung dịch Benlat 0,3% trong 1giờ.

Sau khi vớt hom ra, chấm gốc hom vào thuốc bột TTG hoặc Seradix phủ kín mặt cắt, 100g thuốc dùng cho 1-1,2 vạn hom, rồi cấy ngay vào bầu hoặc cát trên luống ở khu giâm hom. Hom cắt lần nào phải xử lý thuốc và cấy ngay lần ấy, không để qua đêm. Mỗi bầu cấy 1 hom, nếu cấy trên cát thì khoảng cách hom là 7x2cm. Độ sâu cấy hom 2-3cm.

Khu giâm hom có mái lưới nilông hoặc tấm đan che sáng 60%, phía trong xây các luống giâm rộng 1-1,2m, dài 5-10m, cao 10-12cm, đáy luống dốc 3% về phía lỗ thoát nước. Vỏ bầu bằng Polyêtylen, đường kính 5-6cm, cao 10-12cm, có đáy đục lỗ. Ruột bầu làm bằng đất tầng B thành phần cơ giới nhẹ.

Vòm che có khung bằng sắt hoặc tre được phủ bằng nilông trắng trùm kín cả luống giâm để giữ độ ẩm cho hom giâm.

Trước khi giâm hom 12 giờ phải phun Benlat 0,15% đủ ướt sâu 1-2cm mặt bầu hoặc cát trong luống. Tưới đủ ẩm cho bầu hoặc cát trong luống, dùng que nhọn chọc lỗ rồi cấy hom đã xử lý, chụp vòm che lên luống giâm.

Tưới ẩm cho hom giâm bằng hệ thống phun bán tự động hay bình bơm thuốc trừ sâu đảm bảo mặt lá luôn ẩm cho đến khi ra rễ.

Chuyển cây con đã ra rễ cấy vào bầu đất để nuôi dưỡng ở dưới giàn che hoặc cắm ràng che nắng cho đến khi cây sống ổn định.

Định kỳ 15 ngày 1 lần làm cỏ phá váng, tưới thúc NPK (5:10:3) nồng độ 1%, lượng tưới 2 lít/m 2 mặt luống.

Định kỳ 10 ngày 1 lần phun Benlat 0,15% để phòng bệnh thối nhũn hom, bấm tỉa chồi bất định, trên mỗi cây hom chỉ để 1 chồi phát triển.

Khi cây hom cao 20-25cm thì đưa đi trồng. Trước khi xuất vườn 1 tuần phải cắt bớt lá, đảo bầu, loại bỏ cây yếu, sâu bệnh, ngừng tưới nước, tưới phân.

4. Trồng và chăm sóc rừng

Chọn nơi trồng có vĩ độ 10-22 o Bắc, độ cao dưới 500m so với mực nước biển, dốc dưới 25 o. Nhiệt độ bình quân 21-27 oC, tối cao tuyệt đối 42,1 oC, tối thấp tuyệt đối -0,8 oC. Lượng mưa 1400-2400 mm, lượng bốc hơi 540-1200 mm. Số tháng mưa trên 100mm là 5-6 tháng tập trung trong mùa Hè. Đất dày trên 50-60cm, thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến sét nhẹ, chua pH KCl từ 3,5-5,0. Mùn từ trung bình đến giàu, trên 2% ở tầng mặt. Trảng cỏ cây bụi, không hoặc có cây gỗ rải rác, nứa tép, lồ ô,…, nương rẫy bỏ hoá, rừng thứ sinh nghèo kiệt.

Không trồng nơi dốc trên 25 o, có gió lùa mạnh, đất sét nặng bí, đất trơ sỏi đá, chai cứng, lầy úng, kiềm mặn.

Diện tích đất tự nhiên toàn quốc thích hợp để trồng keo lai chiếm 18,1%, có thể mở rộng 24,8%, ít thích hợp 57,1%.

Các tỉnh Bắc Bộ và Thanh Hoá trồng vụ xuân hè (tháng 3-5), có thể trồng vụ thu (tháng 7-8). Các tỉnh ven biển miền Trung trồng vụ thu đông (tháng 9-11). Các tỉnh Tây Nguyên và Nam Bộ trồng đầu mùa mưa (tháng 4-6).

Chọn ngày mưa nhỏ, râm mát hoặc nắng nhẹ, đất trong hố đủ ẩm để trồng.

Chủ yếu trồng thuần loài lấy gỗ nguyên liệu giấy, dăm và gỗ xẻ; cũng có thể trồng hỗn loài theo dải hẹp phù trợ cây bản địa gỗ lớn để phòng hộ.

Mật độ trồng 1100 cây/ha, cự ly 3x3m; hoặc 1660 cây/ha, cự ly 3x2m.

Nơi thực bì thưa, cao dưới 1m, phát toàn diện, dọn tươi xếp theo đường đồng mức hoặc gom đống, đốt cục bộ, đề phòng lửa cháy lan.

Nơi có thực bì dày rậm, cao trên 1-2m, phát băng rộng 2m theo đường đồng mức. Dọn tươi gom xếp vào bìa băng chừa.

Nơi dốc dưới 15 o cày ngầm toàn diện, nếu trồng xen cây nông nghiệp thì dùng cày chảo, sau đó cuốc hố 30x30x30cm.

Nơi dốc trên 15 o làm đất thủ công, cục bộ, đào hố 40x40x40cm trên băng đã phát dọn thực bì theo đường đồng mức.

Kết hợp khi lấp đất bón lót mỗi hố 100-150g NPK (5:10:3) hay 200-300g phân hữu cơ vi sinh hoặc hỗn hợp 50g NPK(5:10:3) + 100-150g phân hữu cơ vi sinh.

Trồng dặm cây chết sau khi trồng 8-10 ngày.

Chăm sóc trong 3 năm liền:

+ Năm đầu, chăm sóc 2 lần: Lần 1 sau khi trồng 1-2 tháng, cắt dây leo, phát dọn thực bì trên toàn diện tích, dẫy cỏ và vun xới quanh gốc rộng 80cm. Lần 2 vào tháng 10-11, phát thực bì và vun xới quanh gốc rộng 80cm. Cây trồng vụ thu đông chỉ chăm sóc 1 lần vào tháng 10-11.

+ Năm thứ 2, chăm sóc 3 lần: Lần 1 vào tháng 3-4, chăm sóc như lần 1 năm đầu. Bón thúc mỗi gốc 200g NPK (5:10:3) hoặc 500g phân hữu cơ vi sinh. Lần 2 vào tháng 7-8, phát thực bì toàn diện, dẫy cỏ vun xới quanh gốc 1m, tỉa cành cao đến 1m. Lần 3 vào tháng 10-11, phát thực bì quanh gốc rộng 1m

+ Năm thứ 3, chăm sóc 2 lần: Lần 1 vào tháng 3-4, phát thực bì toàn diện tích, tỉa cành đến tầm cao 1,5-2,0m. Dẫy cỏ quanh gốc rộng 1m, bón thúc lần 2 như bón lần 1 nhưng rạch bón cách gốc 40-50cm. Lần 2 vào tháng 7-8, phát thực bì toàn diện tích, chặt cây sâu bệnh, phát dẫy cỏ quanh gốc cây.

Keo lai bị sâu cắn lá và bệnh rộp lá, phấn hồng, phấn trắng gây hại. Phải nhổ, đốt cây bị bệnh, bắt diệt, phun thuốc phòng trừ hay phòng trừ kịp thời bằng các biện pháp tổng hợp.

Làm băng trắng cản lửa, rộng 8-10m, trước mùa khô. Nghiêm cấm chặt phá cây, trâu bò phá hại rừng.

Keo lai mọc nhanh, cành lá phát triển mạnh, xanh quanh năm, sau khi trồng 1-2 năm rừng đã khép tán, cải thiện được tiểu khí hậu, đất đai nơi trồng, che chắn hạn chế dòng chảy, trả lại 1 lượng cành khô lá rụng cho đất. Cây con 3 tháng tuổi có 40-80 nốt sần cộng sinh, chứa hàng triệu vi khẩu cố định đạm nhiều gấp 3-12 lần so với keo tai tượng và keo lá tràm. Trong 1 gam đất dưới rừng keo lai 5 tuổi có lượng vi sinh vật gấp 5-17 lần các loài keo bố mẹ và gấp 96 lần ở nơi đất trống.

Với mục đích trồng rừng cung cấp gỗ nguyên liệu giấy, ván dăm áp dụng khai thác chính là chặt trắng và tiếp tục trồng lại rừng mới bằng cây hom, mô. Năng suất rừng đạt 20-25m 3/ha/năm hoặc hơn, tương đương với sản lượng khai thác được 150-200m 3 gỗ cho 1ha rừng với chu kỳ 7-8 năm.

Với mục đích trồng rừng kinh doanh gỗ nhỏ kết hợp gỗ xẻ, đến tuổi 4-5 tỉa những cây sâu bệnh, sinh trưởng kém, hình thân xấu với cường độ 40% số cây, giữ lại 700-800 cây/ha nuôi dưỡng, đến tuổi 10-12 khai thác trắng.

Nguồn: chúng tôi

Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc Cây Keo Tai Tượng

Quả đậu, dẹt, mỏng, khi già khô vỏ quả cong xoắn lại. Hạt hình trái xoan hơi dẹt, màu đen và bóng, vỏ dày, cứng, có dính giải màu đỏ vàng, khi chín và khô vỏ nứt hạt rơi ra mang theo giải đó hấp dẫn kiến và chim giúp phát tán hạt đi xa hơn. Một kg hạt có từ 52000-95000 hạt.

Rễ phát triển mạnh cả rễ cọc và rễ bàng, đầu rễ cám có nhiều nốt sần chứa vi khuẩn cộng sinh có khả năng cố định đạm.

Keo tai tượng mọc tự nhiên ở Đông Bắc Ôxtrâylia tại các vùng Queensland, Jarđin – Claudie River, Ayton – Nam Ingham. Ngoài ra còn thấy xuất hiện ở phía Đông của Inđônêxia và phía Tây Papua Niu Ghinê. Toạ độ địa lý từ 1 đến 19 o vĩ Nam và 125 o22′-146 o17 ‘ kinh Đông, ở độ cao dưới 800m so với mực nước biển.

Keo tai tượng thường mọc thành các quần thụ lớn không liên tục dọc theo bờ biển, gần những khu rừng ngập mặn, cũng gặp mọc xen lẫn đồng cỏ ở ven sông thuộc vùng nhiệt đới ẩm có 4 đén 6 tháng mùa khô. Lượng mưa trung bình 1446-2970 mm, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 13-21 oC, tháng cao nhất từ 25-32 o C. Là loài cây ưa sáng mạnh và cũng đã được nhập trồng thành công ở nhiều nước như Trung Quốc, Malaixia, Philippin, Thái Lan, Lào,…, sinh trưởng mạnh nhất ở nơi có độ cao dưới 300m so với mực nước biển.

Đây là loài có biên độ sinh thái rộng, thích nghi được với nhiều vùng lập địa khác nhau, có thể trồng trên đất bị xói mòn, nghèo dinh dưỡng, đất chua, bồi tụ, đất phù sa, với độ pH từ 4-4,5. Cũng có thể sống được ở những vùng ngập úng, thoát nước kém. Tuy nhiên ở những nơi này chúng sinh trưởng kém và thường phân cành sớm, chiều cao không quá 10m. Sinh trưởng tốt nhất là trên đất sâu, ẩm và giầu dinh dưỡng, thoáng khí và thoát nước tốt, cùng với độ pH trung tính hoặc hơi chua.

Hạt giống Keo tai tượng phải được thu hái từ các cây mẹ trong các rừng giống hoặc rừng giống chuyển hoá đã được công nhận. Ưu tiên lấy giống của các xuất xứ Pongaki, Cardwell, Iron range và một số xuất xứ tốt có nguồn gốc Papua Niu Ghinê đã được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật để trồng rừng.

Là nhóm loài cây có hệ số nhân giống cao, có thể tạo giống bằng gieo hạt nhưng dùng phương pháp nhân giống sinh dưỡng cho kết quả còn hạn chế.

Cây 2 tuổi có thể ra hoa kết quả, tuy nhiên để đảm bảo có được nguồn giống tốt cho trồng rừng chỉ thu hạt của những cây mẹ từ 6 tuổi trở lên ở rừng giống hoặc rừng giống chuyển hoá đã được công nhận. Chọn cây mẹ có hình dáng thân đẹp, sinh trưởng tốt, không bị sâu bệnh. Khi quả chuyển từ màu xanh sang màu nâu thì thu hái rồi phơi trên nền gạch cho vỏ quả khô đều. Sau đó cho vào bao tải và đập để tách hạt ra. Làm sạch hạt và phơi trong nắng nhẹ cho đến khi độ ẩm của hạt còn khoảng 6-8%. Trong điều kiện cất trữ thông thường sau 2 năm vẫn đảm bảo sức nảy mầm của hạt khoảng 60%. Nếu được xử lý tốt, tỷ lệ nảy mầm ban đầu của hạt có thể đạt trên 80% và 1kg hạt cho 30000-35000 cây con tiêu chuẩn.

Xử lý hạt trước khi gieo bằng cách cho hạt vào chậu rồi đổ nước sôi vào với tỷ lệ 1/10 và ngâm trong khoảng 30 phút, sau đó vớt ra đem ngâm vào nước lã khoảng 1 giờ và rửa sạch. Có thể đem gieo ngay hoặc ủ trong túi vải 2-3 ngày thì hạt nứt nanh và đem cấy vào bầu hoặc gieo trên luống. Cần lưu ý trong quá trình ủ hạt phải rửa chua và thay túi hàng ngày.

Kỹ thuật tạo bầu, gieo cây, chăm sóc cây con tương tự như đối với Keo lá tràm.

Tiêu chuẩn cây con đem trồng: Khoẻ mạnh, không bị sâu bệnh, chiều cao tối thiểu 50cm, đường kính gốc tối thiểu 0,5cm.

Ở nước ta Keo tai tượng thường được trồng thuần loài hoặc cũng có một số nơi được trồng hỗn giao với bạch đàn, phi lao, trám,… nhưng chưa mấy thành công.

Để tận dụng khả năng cải tạo đất của những loài cây có nốt sần cố định đạm tự nhiên, qua đó cung cấp dinh dưỡng cho cây, góp phần cải tạo đất, nên keo tai tượng thường được trồng ở những nơi đất trống đồi núi trọc.

Có thể mở rộng gây trồng ở những nơi có lượng mưa bình quân năm 1300-1500mm, 2200-2400mm, nhiệt độ bình quân năm 19-22 hoặc 27-30 oC, nhiệt độ bình quân tháng nóng nhất 30-32 oC, nhiệt độ bình quân tháng lạnh nhất 15-22 oC, nhiệt độ tối cao tuyệt đối 32-34 oC, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối 10-15 oC, có 3-5 tháng mưa ít hơn 50mm, độ cao trên 500-700m so với mực nước biển, địa hình dốc 15-25 o; loại đất thung lũng dốc tụ, đất đỏ vàng và đất mùn trên núi, độ dày tầng đất trên 50-100cm.

Diện tích đất tự nhiên toàn quốc thích hợp để trồng Keo tai tượng chiếm 23,3%, có thể mở rộng 27,2%, ít thích hợp 49,6%.

Xử lý thực bì toàn diện ở nơi có thực bì mọc tốt. Trồng với mật độ 2500-3300 cây/ha với mục tiêu phòng hộ, 1600-2000 cây/ha với mục tiêu sản suất.

Các tỉnh Bắc bộ và Thanh Hoá trồng vụ Xuân Hè (tháng 3-5), có thể trồng vụ Thu (tháng 7-8). Các tỉnh ven biển miền Trung trồng vụ Thu Đông (tháng 9-11). Các tỉnh Tây Nguyên và Nam bộ trồng đầu mùa mưa (tháng 4-6).

Nếu trồng rừng nguyên liệu phục vụ cho ngành giấy, chỉ cần tỉa thưa 1 lần vào tuổi 6-7 và có thể khai thác ở tuổi 9-10. Khi mục đích trồng rừng là để lấy gỗ xẻ phải tiến hành tỉa thưa lần 2 vào tuổi 9-10, cường độ tỉa thưa là 30% số cây hiện có trong lâm phần. Khi rừng đến tuổi 15-18 tiến hành khai thác chính theo phương thức chặt trắng. Keo tai tượng có khả năng tái sinh hạt rất tốt, có thể tận dụng khả năng đó sau khai thác luân kỳ 1 để phục hồi rừng mà không cần phải trồng lại.

Cũng giống như Keo lá tràm, Keo tai tượng là cây đa tác dụng, gỗ có giác lõi phân biệt, với tỷ trọng từ 0,5-0,6, sợi dài 1-1,2 mm; dùng làm gỗ giấy, gỗ dăm, gỗ xẻ, đóng đồ mộc cao cấp, làm ván ghép thanh, bao bì,…. Gỗ có nhiệt lượng khá cao 4800 kcal/kg do đó cũng có thể dùng để đốt than, làm củi đun rất tốt.

Là loài cây mọc nhanh, tán lá dày, thường xanh nên còn được trồng làm cây bóng mát ở công viên, đường phố. Hoa có thể dùng để nuôi ong, vỏ chứa ta nin dùng cho công nghệ thuộc da, lá cây có thể làm thức ăn cho gia súc.

Rễ có nhiều nốt sần có khả năng cố định đạm rất tốt, nên Keo tai tượng nói riêng và các loài keo nói chung, ngoài việc sử dụng để trồng rừng sản xuất, rừng phòng hộ, còn được trồng ở những nơi có đất khô cằn, bị thoái hoá để tận dụng khả năng cải tạo đất của chúng.

Rừng keo tai tượng trồng 10 tuổi ở nơi đất trung bình có thể cho 12 đến 15 m 3/ha/năm, nơi đất tốt với xuất xứ phù hợp và trồng thâm canh có thể cho 18 đến 20, thậm chí đạt 25 m 3/ha/năm. Tăng trưởng bình quân ở giai đoạn 10-13 tuổi đạt tới 24m 3/ha/năm, ở Nam Phi rừng trồng bằng cây con từ hạt đạt 21,9 m 3/ha/năm và từ các dòng vô tính đạt 30 m 3/ha/năm.

Nếu kết hợp kinh doanh gỗ xẻ sau 15-18 năm khai thác gỗ dùng để đóng đồ mộc cao cấp nhất là cho xuất khẩu thì càng có giá trị cao, cũng vì vậy mà những năm gần đây nhiều nơi đã rất chú trọng trồng Keo tai tượng nhất là ở các tỉnh phía Bắc như Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Quảng Ninh,….

Ở một số lập địa hoặc một số xuất xứ thường gặp có cây bị rỗng ruột làm giảm giá trị sử dụng của gỗ nhưng chưa xác định được nguyên nhân một cách chắc chắn và cũng chưa tìm được biện pháp khắc phục có hiệu quả.

Nguồn: chúng tôi