Top 6 # Xem Nhiều Nhất Kỹ Thuật Trồng Ổ Qua Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Vitagrowthheight.com

Kỹ Thuật Trồng Khổ Qua

 10/03/2017

CÔNG TY TNHH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT Á

Địa chỉ: 227 Ngô Xuân Quảng- TT Trâu Qùy- Gia Lâm- Hà Nội

Tel : 043 8760284- 0988286997 – 0904565955

Email: Vietaseed@gmail.com- Website: Vietaseeds.com.vn               

KHỔ QUA  Tên khoa học: Momordica charantia L.  Họ bầu bí: Cucurbitaceae

1. GIỚI THIỆU

Khổ qua có nguồn gốc vùng Châu Á nhiệt đới, có thể là Đông Ấn và Nam Trung Quốc, được sử dụng như là loại rau ăn quả giàu chất sắt và vitamin C và canh tác được quanh năm ở vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới.

2. ĐẶC TÍNH SINH HỌC

Cây leo quấn hằng niên, thân mọc dài đến 5 m. Lá đơn, mọc cách, lá xẽ 3 – 9 thùy. Hoa đơn phái cùng cây, hoa mọc đơn độc ở nách lá, màu vàng, hoa đực có có cuống ngắn. Hoa cái có cuống dài, bầu noãn hạ, phát triển rất nhanh trước và sau khi thụ phấn. Hoa thụ phấn nhờ côn trùng, chủ yếu là ong. Trái ăn tươi có thể thu hoạch 2 tuần sau khi thụ phấn. Trái chứa từ 20 – 30 hạt.

Khổ qua thích nghi rộng với điều kiện thời tiết nên trồng được quanh năm trong vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Cây phát triển tốt trong điều kiện nhiệt độ từ 20 – 35oC, vũ lượng 1500 – 2500 mm và cao độ đến 1000 m. Cây chịu đựng được nhiều điều kiện đất khác nhau nhưng phát triển tốt nhất trên đất thoát thủy tốt, giàu chất hữu cơ.

3. GIỐNG

3.1 Giống lai F1:

- Giống :Giống lai F1 có sức sinh trưởng mạnh, trái dài, suông đẹp, đầu đuôi trái hơi nhọn, gai nở to xanh bóng, thịt dày, độ đắng trung bình. Chiều dài trái 20-22 cm và trọng lượng 200-250G, 120-140 g, năng suất cao, trồng quanh năm.

- Giống khổ qua lai F1 số 242: Do công ty Hai Mũi tên Đỏ phân phối, cây sinh trưởng tốt ở mọi thời vụ, kháng bệnh đốm lá (Cercospora). Thời gian bắt đầu thu hoạch trái 38-40 ngày sau khi gieo và kéo dài 1,5-2 tháng. Năng suất 3-4,5 kg/cây. Chiều dài trái 19-22cm, màu xanh sáng, rất bóng, gai lớn thẳng.

3.2 Giống địa phương:

- Giống TH-12: do CTGCTMN chọn lọc từ giống khổ qua mỡ địa phương. Giống cho trái sớm, bắt đầu thu trái 40 NSKG, trái dài 18 -20 cm, thon hai đầu, không vai, màu xanh trung bình, gai dọc liền và nổi rỏ, thịt trái dầy, ít đắng, thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Năng suất trung bình từ 20 – 25 tấn/ha.

- Giống trái nhỏ: do CTGCTTP chọn lọc từ giống địa phương. Giống cho trái rất sớm, bắt đầu thu hoạch 35 NSKG, trái dài 15 -16 cm, thon hai đầu, không vai, màu xanh trung bình, gai dọc liền và nổi rỏ, thịt dầy, ít đắng, thích hợp thị hiếu người tiêu dùng thành phố. Năng suất 15 – 20 tấn.

- Giống khổ qua Xiêm: trái to, dài 30 – 40 cm, không vai, vỏ xanh trung bình, gai to, ít đắng, năng suất khá.

- Giống khổ qua Rô: trái nhỏ 12 – 15 cm, hai đầu nhọn, không vai, vỏ xanh trung bình, gai nhỏ, nhọn, vị đắng nhiều, sai trái nhưng năng suất thấp hơn khổ qua Xiêm. Loại này thích hợp chế biến sấy khô làm trà.

4. KỸ THUẬT CANH TÁC

4.1.Thời vụ

Trồng được quanh năm, tốt nhất là vụ Đông Xuân. Vụ Hè Thu (mưa nhiều) thường bị ruồi đục trái gây hại nặng.

4.2. Gieo trồng

– Đối với giống lai F1 lượng hạt cần gieo là 140-170 g/1.000m2 (mật độ 500-700cây/1.000m2) vì cây phát triển mạnh, bò dài, trồng thưa hơn giống địa phương, cần phải làm giàn mới phát huy hết tiềm năng của giống. Thường trồng hàng đôi khoảng cách 4-5 m hoặc hàng chiếc 2-2,5m, cây cách cây 70-80 cm.

– Đối với giống địa phương cần 300 – 500 kg/1.000m2. Trồng hàng cách hàng 1,2m, cây cách cây trên hàng 30-35 cm, mật độ trung bình 2.400-2.700 cây/1.000m2. Mùa nắng có thể trồng bò đất, hàng đôi cách nhau 3-3,5 m, mật độ 1.600-1.900 cây/1.000m2 .

Vỏ hột khổ qua khá dầy nên ngâm hạt 1-2 giờ trong nước ấm 2 sôi – 2 lạnh, vớt ra ủ cho nhú mầm rồi đem gieo sẽ lên tốt hơn. Khi hột nhú mầm đem gieo thẳng ra đồng hoặc gieo trong bầu đất. Bầu đất làm bằng túi nylon có cắt góc hoặc bầu lá chuối, lá dừa. Phun thuốc trừ bệnh như Copper B, Rovral, Topsin M trên bầu đất trước khi gieo hột và rãi Basudin 10H xung quanh bầu và phía trên bầu để tránh côn trùng gây hại. Khi cây được 10 -12 ngày thì trồng ra đồng.

Đất thích hợp trồng khổ qua là dất thịt nhẹ hoặc cát pha, thoát nước tốt. Đất phải cày bừa kỹ, lên luống cao 20 – 25 cm.

4.3. Sử dụng màng phủ nông nghiệp

Màng phủ nông nghiệp còn gọi là “màng bạt” hay “thảm”, là một loại nhựa dẽo, mỏng, chuyên dùng để phủ liếp trồng rau, dầy 0,03-0,035 mm, mặt trên có màu xám bạc, mặt dưới màu đen, sử dụng bình quân 2 vụ khổ qua.

Mục đích:

a. Hạn chế côn trùng gây hại: Mặt màu bạc của màng phủ phản chiếu ánh sáng mặt trời nên giảm bù lạch, rầy mềm, dòi đục lòn lá và giảm thun đọt khổ qua.

b. Hạn chế bệnh hại: Bề mặt màng phủ ráo nhanh sau khi mưa; bộ lá cây luôn khô, thoáng, giảm bệnh do nấm tấn công ở gốc thân và đốm phấn trên lá chân.

c. Ngăn ngừa cỏ dại: Mặt đen của màng phủ ngăn cản ánh sáng mặt trời, làm hạt cỏ bị chết trong màng phủ.

d. Điều hoà độ ẩm và giữ cấu trúc mặt đất: Màng phủ ngăn cản sự bốc hơi nước trong mùa nắng, hạn chế lượng nước mưa nên rễ cây không bị úng nước, giữ độ ẩm ổn định và mặt đất tơi xốp, thúc đẩy rễ phát triển, tăng sản lượng.

e. Giữ phân bón: Giảm rửa trôi của phân bón khi tưới nước hoặc mưa to, ít bay hơi nên tiết kiệm phân.

f. Tăng nhiệt độ đất: Giữ ấm mặt đất vào ban đêm (mùa lạnh) hoặc thời điểm mưa dầm thiếu nắng mặt đất bị lạnh.

g. Hạn chế độ phèn, mặn: Màng phủ làm giảm sự bốc hơi qua mặt đất nên phèn, mặn được giữ ở tầng đất sâu, giúp bộ rễ hoạt động tốt hơn.

Trồng khổ qua sử dụng màng phủ nông nghiệp có thể khắc phục được một phần yếu tố bất lợi của môi trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với trồng tủ rơm.

CÁCH SỬ DỤNG MÀNG PHỦ NÔNG NGHIỆP:

a. Chuẩn bị trước khi trồng:

- Vật liệu và qui cách: Dùng màng phủ khổ rộng 1-1,2 m (trồng hàng đơn) hoặc 1,4-1,6 m (trồng hàng đôi. Chiều dài mỗi cuồn màng phủ là 400 m, trung bình trồng 1.000m2 khổ qua cần khoảng 1 cuồn nếu trồng hàng đôi như dưa hấu, còn tốn 1,5 cuồn nếu khỏang cách hàng gần hơn. Khi phủ liếp mặt xám bạc hướng lên, màu đen hướng xuống.

- Lên liếp: Lên liếp cao 20-40 cm tùy mùa vụ, đất ruộng trong mùa mưa cần lên liếp cao, mặt liếp phải làm bằng phẳng không được lồi lõm vì rễ khó phát triển và màng phủ mau hư, ở giữa liếp hơi cao hai bên thấp để tiện việc tưới nước.

- Rãi phân lót: cách bón và liều lượng phân ở phần sau.

- Xử lý mầm bệnh: Phun thuốc trừ nấm bệnh như Oxyt đồng hoặc Copper B (20 g/10 lít) hoặc Validacin (20 cc/10lít) đều trên mặt liếp trước khi đậy màng phủ.

- Đậy màng phủ: Mùa khô nên tưới nước ngay hàng trồng cây trước khi đậy màng phủ. Khi phủ kéo căng vải bạt, hai bên mép ngoài được cố định bằng cách dùng dây ni long căng ngang mặt líp, mỗi đầu dây cột một que cây 15-20cm, hoặc dùng dây chì bẻ hình chữ U mỗi cạnh khoảng 10 cm ghim sâu xuống đất (dây chì sử dụng được nhiều năm) hoặc dùng tre chẻ lạc ghim mé liếp nếu như đất mịn và dẽo như ở huyện Chợ Mới tỉnh An Giang, cũng có thể lâp đất tấn xung quanh mé liếp để tránh gió tốc nhưng chỉ thích hợp trong mùa nắng.

Khi phủ xong không nên dùng rơm hay cỏ đậy trên màng phủ vì làm mất tác dụng phản chiếu ánh sáng, không nên đi đạp lên vải bạt vì mau rách.

- Đục lổ màng phủ: Dùng lon sữa bò đường kính khoảng 10 cm, có đục lổ thông gió xung quanh chân lon, làm cán để cầm, cột dây chì vòng miệng lon chừa râu dài 50-70 cm làm cự ly giữa các cây, đốt than nóng cho vào trong lon.

b. Trồng cây:

Rãi một ít đất mịn hoặc rơm hoặc trấu mục vào trong lổ (không nên dùng nhiều tro trấu, nhất là trong mùa nắng vì sức nóng của màng phủ và của tro làm cây con bị hóc phát triển yếu), tưới nhiều nước vào lổ rồi gieo hột hoặc đặt cây con. Xử lý côn trùng bằng thuốc hột như Basudin 10H hay Regent rãi xung quanh gốc sau khi gieo hột hoặc sau khi cấy cây con (2 kg/1.000 m2).

4.4. Chăm sóc

4.4.1. Bón phân: lượng phân sử dụng cho 1.000 m2: Hữu cơ 1 tấn + 95 kg hỗn hợp 16-16-8 và 5 kg Clorua kali + 5 kg Calcium nitrat + 50 kg vôi bột (tương đương công thức 160 N-150 P2O5-100 K2O- 10 Ca kg/ha). Trong mùa mưa nên bón thêm 5-8 kg Calcium nitrat giúp trái cứng ít bị hư. Cách bón được thực hiện như sau:

* Bón lót: 25 kg 16-16-8 + 1 tấn hữu cơ + 50 kg vôi. Vôi rải đều trên mặt đất trước khi cuốc đất lên liếp, phân chuồng hoai và phân hóa học rãi trộn đều trên mặt liếp. Lượng phân bón lót nhiều hơn trồng phủ rơm vì phân nằm trong màng phủ ít bị bốc hơi do ánh nắng, hay rửa trôi do mưa.

* Bón phân thúc:

Lần 1: 15-20 ngày sau khi trồng

Liều lượng 20 kg 16-16-8 + 1 kg Calcium nitrat.

Bón phân bằng cách vén màng phủ lên rãi phân một bên hàng khổ qua hoặc đục lổ màng phủ giữa 2 gốc.

Lần 2: 35-40 ngày sau khi trồng, khi đã đậu trái đều, chuẩn bị thu trái lưa đầu.

Lượng bón 20 kg 16-16-8 + 1 kg Clorua kali + (1-2) kg Calcium nitrat.

Vén màng phủ lên rãi phân phía còn lại hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc.

Lần 3: Khi cây 55-60 ngày sau khi trồng, bắt đầu thu trái rộ.

Lượng bón 20 kg 16-16-8 + 2 kg Clorua kali + (2-3) kg Calcium nitrat.

Vén màng phủ lên rãi phân hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc.

Lần 4: Khi cây 70-80 ngày sau khi trồng

Lượng bón: 10 kg 16-16-8 , 1 kg Clorua kali + (1-2) kg Calcium nitrat.

Vén màng phủ lên rãi phân hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc.

Sử dụng thêm các loại phân bón qua lá để tăng cường sức sinh trưởng của cây trong lúc ra hoa kết trái.

4.4.3. Tưới nước: Cần tưới đủ nước cho cây phát triển nhất là vào mùa khô, thiếu nước giai đoạn ra hoa sẽ làm cho hoa trái bị rụng và nhiều trái đèo. Trong mùa nắng, trồng có màng phủ cần chú ý cung cấp đủ nước bằng cách bơm nước vào rãnh hoặc tưới vào lổ giữa 2 gốc. Vào mùa mưa tránh ruộng bị ngập úng làm hư hại rễ.

4.4.4. Bấm ngọn, tỉa dây: Tùy theo đặc tính giống trồng mà có hình thức tỉa dây, bấm ngọn cho thích hợp. Các giống ra nhánh sớm ngay từ nách lá đầu tiên nên tỉa bỏ 2-3 nhánh đầu để tạo sự thông thoáng ở gốc. Nếu giống ra nhánh từ nách lá thứ 4 trở lên thì không cần tỉa nhánh. Một số nơi có tập quán ngắt ngọn khi cây có 5-7 lá, sau đó chừa 3 nhánh mọc mạnh và để trái trên các dây nhánh đó. Khổ hoa cho trái trên dây chánh cũng như dây nhánh nên cây có nhiều dây sẽ cho nhiều trái.

Do cây ra hoa kết trái liên tục, vì vậy cần tỉa bỏ sớm các trái dị dạng, teo đèo để cây tập trung dinh dưỡng nuôi trái thương phẩm tốt.

4.4.5. Phòng trừ sâu bệnh

* SÂU HẠI

- Ruồi đục trái (Bactrocera cucurbitae): Ruồi có hình dạng và kích thước rất giống ruồi đục trái cây, nhưng chỉ gây hại trên các cây họ Bầu Bí. Ấu trùng là dòi có màu trắng ngà, đục thành đường hầm ngoằn ngèo bên trong trái làm trái thối vàng, rụng sớm.

Nên thu gom tiêu diệt trái rụng xuống đất, cày phơi đất sau vụ hoặc cho nước ngập ruộng vài ngày để diệt nhộng. Phun ngừa ruồi bằng các thuốc Sherpa, Karate, Cyper-alpha, Cyperan. Nếu ruồi ở mật độ cao có thể dùng dấm pha với một ít đường và trộn với thuốc trừ sâu, xong đặt rải rác, 6 -10 m một bẩy. Cũng có thể dùng giấy báo, bao nilong để bao trái sau khi trái đậu 2 ngày.

- Rầy lửa, bọ trỉ, bù lạch (Thrips sp.)

– Bù lạch có tính kháng thuốc rất cao, nên định kỳ 7-10 ngày/lần phun dầu khoáng DC-Tron plus (Caltex) sẽ giảm đáng kể sự tấn công của bù lạch; khi thấy mật số vài ba con trên một đọt non cần phun một trong các loại như Confidor 100SL, Admire 50EC, Danitol 10EC, Vertimec…0.5-1%o, cần thay đổi thuốc thường xuyên

- Rệp dưa, rầy nhớt (Aphis spp.)

Còn được gọi là rầy mật, cả ấu trùng lẫn thành trùng đều rất nhỏ, dài độ 1-2mm, có màu vàng, sống thành đám đông ở mặt dưới lá non từ khi cây có 2 lá mầm đến khi thu hoạch, chích hút nhựa làm cho ngọn dây dưa chùn đọt và lá bị vàng. Rầy truyền các loại bệnh siêu vi khuẩn như khảm vàng. Chúng có rất nhiều thiên địch như bọ rùa, dòi, kiến, nhện nấm.. nên chỉ phun thuốc khi nào mật số quá cao ảnh hưởng đến năng suất. Phun các loại thuốc phổ biến như trừ bọ rầy dưa hoặc Trebon.

- Sâu ăn lá (Diaphania indica)

– Bướm nhỏ, màu nâu, khi đậu có hình tam giác màu trắng ở giữa cánh, hoạt động vào ban đêm và đẻ trứng rời rạc trên các đọt non. Trứng rất nhỏ, màu trắng, nở trong vòng 4-5 ngày. Sâu nhỏ, dài độ 8-10mm, màu xanh lục có sọc trắng đặc sắc ở giữa lưng, thường nhả tơ cuốn lá non lại và ở bên trong ăn lá hoặc cạp vỏ trái non. Sâu đủ lớn, độ 2 tuần làm nhộng trong lá khô.

– Phun thuốc ngừa bằng các loại thuốc phổ biến trên đọt non và trái non khi có sâu xuất hiện rộ như thuốc trừ rệp dưa, bọ rầy dưa.

* BỆNH HẠI

- Bệnh đốm phấn, sương mai do nấm Pseudoperonospora cubensis. Lúc đầu, ở mặt trên lá vết bệnh nhỏ màu xanh nhạt, sau đó chuyển sang màu vàng nâu và giới hạn trong các gân phụ của lá, nên đốm bệnh có hình góc cạnh. Bên dưới ngay vết bệnh có lớp tơ nấm lúc đầu màu trắng sau đó chuyển sang màu vàng tím. Nhiều vết bệnh liên kết lại làm lá vàng, cây phát triển chậm, trái nhỏ kém chất lượng. Bệnh phát triển mạnh trong điều kiện ẩm độ cao.

Phun Curzat M-8, Mancozeb 80 WP, Copper-zinc, Zin 80WP, Benlate-C 50 WP hoặc Ridomil 25WP 1-2 % kết hợp tỉa bỏ lá già.

- Bệnh thán thư do nấm Colletotrichum lagenarium: Bệnh gây hại trên hoa, cuống trái, trái non và cả trái chín. Vết bệnh trên trái có màu nâu tròn, lõm, khi bệnh nặng các vết này liên kết thành mảng to gây thối trái và làm trái rụng sớm.

– Phun Manzate 200, Mancozeb 80WP, Antracol 70W, Curzate M8, Copper-B, Topsin-M, Benlat-C 50WP nồng độ 2-3%o.

5. THU HOẠCH

Khổ qua cho thu hoạch nhiều lần. Lần đầu cho thu hoạch 40 – 45 ngày sau khi gieo, thu khoảng 20 – 30 kg/1.000m2. Trung bình cách 3 – 4 ngày thu một lần, thu tổng cộng 10 -15 lứa trong 40 – 50 ngày tùy theo mùa vụ và mức độ thâm canh của người trồng. Năng suất cao nhất ở các lứa thứ 4 – 6, khoảng 200 – 300 kg/1.000m2. Năng suất tổng cộng cả vụ 1,5 – 3/1.000m2 tấn trong 3 – 3,5 tháng trồng.

6. ĐỂ GIỐNG

Không nên sử dụng trái thương phẩm của giống lai F1 để làm giống vụ sau cho trái không đồng đều về hình dạng, màu sắc và năng suất thấp.

Giống địa phương muốn để giống phải chú ý trồng cách ly với các giống khác ở xung quanh để giống đảm bảo độ thuần. Chọn trái tốt trên cây sinh trưởng tốt và không sâu bệnh để làm giống.

Khi trái chín vàng đều, thu vào để nơi mát. Nên phân biệt trái chín hoàn toàn với trái bị vết sâu bệnh, trong quá trình thu phải bỏ hẳn trái bị sâu bệnh để không ảnh hưởng đến chất lượng giống sau này. Trái giống chín mềm bốc ra cào lấy hạt rồi để ủ 1 đêm sau đó rửa sạch chất nhờn bằng nước. Hạt giống sau khi rửa sạch phải phơi khô nhanh, vì thời gian phơi hạt lâu vỏ hạt biến màu khi khô và giảm chất lượng

Kỹ Thuật Trồng Khổ Qua An Toàn

Khổ qua hay còn gọi là mướp đắng không những được dùng làm rau mà còn được sử dụng hỗ trợ trừ bệnh tiểu đường, mát gan nên có sức mua cao, nhất là về mùa hè. Khổ qua được trồng trên nhiều loại đất khác nhau và có thể được trồng quanh năm.

Hiện nay trên thị trường phổ biến các loại hạt giống lai F1 do nhiều công ty giống rau trong và ngoài nước cung ứng với chất lượng và mẫu mã khá tốt. Hạt giống trước khi trồng cần phải được xử lý tốt bằng cách ngâm trong nước ấm 2 sôi 3 lạnh trong 2 – 3 giờ và vớt ra cho vào khăn ấm ủ trong 2 ngày. Sau 2 ngày, thấy hạt nứt nanh thì đem gieo vào bầu đất.

Bầu đất cần được để trong nhà ươm tránh mưa, tưới giữ ẩm cho bầu đất 2 lần/ngày và chăm sóc trong 7 ngày có thể mang cây con ra ruộng trồng.

Khổ qua có thể phát triển tốt trên các vùng đất thịt nhẹ có độ ẩm, khả năng thoát nước tốt. Tuy nhiên, khổ qua được trồng tốt nhất vào mùa khô sẽ đạt năng suất cao, tránh được các bệnh gây hại như: sâu ăn lá, bệnh sương mai, phấn trắng, chết cây con do ngập úng.

Trước khi trồng, đất cần được cày bừa kỹ, phơi ải từ 7 – 10 ngày, nhặt sạch cỏ dại và bón vôi từ 800 – 1.000kg/ha rải đều trên mặt ruộng.

3. Trồng và chăm sóc cây con:

Làm liếp: Liếp cao 20 – 30cm, rộng 1.200 cm, rãnh từ 30 – 40cm.

Xử lý đất: Bón lót 300 – 400 kg hữu cơ vi sinh Nasa Smart/ha và phun thuốc trừ nấm Viben – C50WP trên mặt liếp rồi phủ bạt. Bạt loại 90cm, mặt đen của bạt nằm phía dưới, lắp đất 2 đầu và dùng ghim giữ bạt hai bên nhằm để cố định và đục lỗ trồng, khoảng cách giữa 2 lỗ trồng là 30cm.

Cây con cần được tưới nước trước khi mang ra trồng trên liếp, nên xới đất lên để tạo độ xốp cho đất. Mỗi lỗ đặt 1 cây con và phủ lớp đất mỏng lên trên bầu cây con.

Trong 3 – 4 ngày đầu, nên tưới nước cho khổ qua bằng hệ thống tưới phun và tưới vào lúc sáng sớm hoặc chiều tối, tránh tưới vào lúc nắng nóng sẽ bị cháy lá cây con.

Sau 3 – 4 ngày tiến hành làm giàn cho khổ qua. Dùng tre hoặc tầm vông làm trụ, khoảng cách giữa hai trụ khoảng 3m và cao 2m. Sau đó, dùng dây cước căng làm giàn và bỏ chà cho khổ qua leo. Để khổ qua leo và sinh trưởng tốt, nông dân cần hỗ trợ vắt ngọn lên giàn để khổ qua leo lên giàn tốt.

Trong quá trình xử lý đất, nông dân đã bón lót vôi và hữu cơ vi sinh Nasa Smart cho cây. Do đó cần phải tưới nước thường xuyên cho cây sinh trưởng tốt trong giai đoạn đầu.

Bón thúc 1: khi cây được 3 -4 lá, bón 100-150 kg Năm Sao Total Effects 20-20-15+TE /ha.

Bón thúc 2: khi khổ qua có tua bón 150 – 200kg/ha Năm Sao Total Effects 20-20-15+TE dạng một hạt màu tím.

Bón thúc 3: khi khổ qua có hoa cái, bón 150 – 180kg/ha phân bón Năm Sao chuyên dùng cho rau củ 15-9-17+TE.

Xen kẽ giữa các lần thu hoạch, bà con có thể dùng phân bón Năm Sao chuyên dùng cho rau củ 15-9-17+TE để hòa nước và tưới cho cây.

5. Phòng trừ các sâu bệnh thường gặp:

Cách 1: nông dân nên bón cách gốc 10 – 15cm, phủ lớp đất mỏng và tưới nước.

Cách 2: nông dân có thể dùng cây nhọn đục lỗ cách gốc 10cm, sâu 8cm, phân bón được hòa vào nước với nồng độ loãng và tưới vào lỗ được đục. Tưới phân bón bằng cách này giúp cây dễ dàng hấp thu và tránh thất thoát phân bón do bay hơi hay đất giữ lại.

Đối với sâu như: dòi đục quà, sâu xanh, dòi đục lá phải chú ý phòng trừ sớm bằng các loại thuốc như: Sherpa 20 EC, Sumicidin 10EC, Cyperan 25EC, Mimic 20F, Baythroid 50Ec, Confidor 100SL… Thời gian cách ly tối thiểu 07 ngày.

Đối với bệnh như: bệnh phấn trắng, chết cây con phòng trừ bằng các loại thuốc như Anvil 5SC, Score 250EC, Aliette.

Quả được thu hoạch sau khi thụ phấn 7 – 10 ngày, thu hoạch 2 ngày/lần. Thời gian thu hoạch kéo dài 1 – 2 tháng và nên dùng dao cắt nhẹ tay khi hái quả.

Cần tỉa bỏ quả bị sâu hại và quả nhỏ trong quá trình chăm sóc và thu hoạch.

Kỹ Thuật Trồng Khổ Qua (Mướp Đắng)

Có thể trồng được quanh năm. Vụ mùa nắng cây ít bệnh và cho năng suất cao hơn vụ mưa.

1.2. Chuẩn bị đất:

Đất trồng tốt nhất là đất thịt nhẹ, cát pha, phù sa ven sông, giàu mùn và chất dinh dưỡng, dễ tưới, thoát nước tốt. Vùng trồng phải tuyệt đối không chịu ảnh hưởng của các tác nhân gây ô nhiễm: Nước thải thành phố, nước thải bệnh viện, nước thải công nghiệp, bụi công nghiệp…

Đất được cày ải, sạch cỏ dại, bừa nhỏ vừa phải, lên luống rộng 1 – 1,2m, cao 25 – 30cm, rãnh rộng 25 – 30cm. Trồng 1 hàng trên luống, cây cách cây 45 – 50cm.

Mật độ: 3.000 – 5.000cây/ha.

1.3. Giống:

Có thể sử dụng của các công ty giống trên địa bàn thành phố. Đối với khổ qua, có nhiều giống tên gọi khác nhau tuy nhiên chúng thuộc 2 nhóm đó là nhóm trái lớn và nhóm trái nhỏ.

Hạt giống: Có thể gieo trực tiếp trên các liếp đã chuẩn bị xong hoặc gieo vào khay.

Nếu sử dụng khay chúng ta nên dùng khay 72 lỗ là tốt nhất. Giá thể cho vào khay gồm đất sạch 1/3 + phân chuồng hoai mục 1/3 + tro trấu hoặc xơ dừa 1/3. Trộn đều giá thể và trộn thêm 1% phân super lân sau đó dùng các loại thuốc trị bệnh chết cây, lở cổ rễ tưới vào giá thể ủ kín 2 – 3 ngày rồi cho vào khay gieo.

Hạt có thể gieo trực tiếp xuống đất, rồi phủ đất có trộn phân chuồng. Không nên gieo quá sâu (khoảng 1,5cm) và chỉ tưới vừa ẩm cho hạt mọc. Mỗi hốc gieo 1-2 hạt.

Khi gieo hạt, đặt đầu nhọn xuống dưới. Phủ lưới rơm rạ sau khi gieo để không làm trôi hạt khi tưới nước. Haït neân ñược xử lý bằng nước ấm trước và thuốc bệnh ủ hạt nứt nanh rồi gieo, cách này ít tốn hạt và ít làm hư hạt nhưng sau khi cấy phải tưới đủ ẩm cho cây phát triển nhanh. Cách ủ hạt như sau: Hạt giống ngâm vào nước 2 sôi – 3 lạnh (khoảng 54 độ C) trong 2 – 3 giờ. Sau đó rửa sạch nhớt trên vỏ hạt, ngâm vào các dung dịch thuốc trị bệnh nồng độ 0,1% từ 10 – 15 phút. Vớt hạt ra để ráo cho vào khăn vải ẩm bọc lại ủ hạt, nếu trời lạnh có thể để dưới bóng đèn vàng cho hạt mau mọc. Hằng ngày thăm xem bọc vải có đủ ẩm không, nếu khô thì rưới nước vào nhưng tránh quá ẩm, hạt sẽ khó mọc. Khoảng 2 ngày, hạt sẽ lú rễ mầm thì đem gieo ngay, nếu để rễ dài đem gieo rễ sẽ bị gẫy. Cách này cần chú ý, sau khi gieo cần duy trì nước tưới đầy đủ cho hạt mọc, nên tưới ướt đẫm đất trước khi gieo để không làm hư rễ mầm.

Nếu gieo trong khay thì khi hạt có 1 – 2 lá thật thì đem trồng. Nên gieo dự phòng 5-10% lượng cây định trồng để trồng dặm.

* Lượng phân bón cho 1 ha:

Phân chuồng hoai: 30 tấn, phân Supe lân/lân vi sinh: 200 – 300kg, Phân NPK các loại: 200kg, phân Urê: 100kg, phân Kali: 80kg.

* Cách bón:

– Bón lót:

Bón toàn bộ phân chuồng, phân lân, 1/4 lượng phân NPK. Bón lúc lên liếp, phân được trộn vùi trong đất sau đó phủ bạt kín lại.

– Bón thúc:

Có thể chia đều lượng phân nhiều lần bón từ 5 – 7 lần tùy theo mùa vụ và chân đất (mùa mưa và chân đất thịt nhẹ: bón nhiều lần). Nên bón vùi phân vào đất để phân không bị phân hủy bốc hơi và rửa trôi.

Giữa các lần bón thúc và trong thời gian thu hoạch có thể phun thêm phân bón lá. Có thể sử dụng phân bón lá theo nồng độ ghi trên bao bì.

– Trồng dặm: Sau khi trồng 5 – 7 ngày, kiểm tra ruộng và dặm những cây chết vào buổi chiều mát, trồng xong tưới nước ngay để tránh cây bị héo.

– Tưới nước: Khổ qua rất cần nước để sinh trưởng, phát triển và cho năng suất cao nên chú ý cung cấp đủ nước cho cây suốt thời gian sinh trưởng nhưng tránh để ngập úng. Tưới rãnh hoặc tưới có hệ thống tưới nhỏ giọt và có màng phủ nông nghiệp có thể 3 – 5 ngày tưới một lần, tùy mùa vụ.

– Làm giàn: Khi cây bắt đầu xuất hiện tua cuốn thì làm giàn, có thể tranh thủ làm giàn trước khi cây xuất hiện tua cuốn. Làm giàn hình chữ U ngược cao tối thiểu 2m, vật liệu làm giàn phải chắc để không đỗ ngã khi gió bão, sẽ làm giảm năng suất.

– Sửa dây: Khi dây leo lên giàn, cần sửa dây phân bố đều, tỉa bỏ những nhánh gốc, nhánh nhỏ, nhánh sâu bệnh cho ruộng được thông thoáng góp phần làm giảm sâu bệnh và tăng đậu trái. Kết hợp sửa dây với tỉa nhánh gốc và nhánh nhỏ, lá già, sâu bệnh giúp cây tập trung dinh dưỡng nuôi trái.

– Làm cỏ kết hợp với các lần bón phân.

– Sâu đất, tuyến trùng: Xử lý đất trước khi trồng bằng Regent 0.3G lên hốc gieo, hoặc sau khi cấy rãi quanh gốc.

– Sâu xanh: Vertimec,…phun khi sâu tuổi còn nhỏ, kết hợp diệt sâu và trứng bằng tay.

– Nhóm chích hút: Bọ trĩ, rầy xanh, nhện: Actara, Confidor, Decis 25tab,… theo nồng độ khuyến cáo. Tránh để ruộng quá khô hạn.

– Sâu vẽ bùa: Trigard… vào lúc sáng sớm.

– Bệnh sương mai: Bavistin 50FL, Zoom 50SC phun sớm khi bệnh vừa mới xuất hiện.

Chú ý: Sử dụng thuốc theo nguyên tắc “4 đúng” và có thời gian cách ly an toàn.

Khoảng 45 – 50 ngày sau khi gieo là có thể thu hoạch. Mỗi ngày thu 1 lần, độ lớn trái tùy thị trường và giống. Nếu chăm sóc tốt, đất trồng tốt, làm giàn cao và đầu tư đúng mức thì thời gian thu hoạch sẽ kéo dài.

Khuyến nông TPHCM, 11/2013

Kỹ Thuật Trồng Mướp Đắng(Cây Khổ Qua)

Ngày đăng: 2015-04-10 15:31:04

Giới thiệu kỹ thuật trồng và chăm sóc cây mướp đắng (cây khổ qua). Hướng dẫn cách xác định thời vụ trồng, kỹ thuật làm đất, khoảng cách mật độ của cây. Kỹ thuật chăm sóc, liều lượng phân bón và biện pháp phòng trừ sâu bệnh, thu hoạch và bảo quản mướp đắng.

Mướp đắng (cây khổ qua) hiện nay được trồng rộng rãi ở khắp các nơi trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Do có biên độ sinh thái rộng, nên ở vùng nhiệt đới mướp đắng có thể sinh trưởng quanh năm, rất dễ mẫn cảm với điều kiện úng ngập. Mướp đắng có thể trồng trên nhiều loại đất nhưng sinh trưởng thuận lợi nhất trên đất giầu dinh dưỡng và thoát nước tốt. Chúng tôi xin giới thiệu đến bà con kỹ thuật trồng và chăm sóc cây trồng này.

1. Thời vụ

Mướp đắng gieo từ đầu tháng 3 đến tháng 9, thu hoạch từ tháng 5 – 12. Tuy nhiên, nếu gieo càng muộn, năng suất giảm và sâu bệnh hại tăng lên.

2. Làm đất

– Nên chọn loại đất thịt nhẹ, đất cát pha, tơi xốp, mặt ruộng bằng phẳng, dễ tưới và thoát nước, có độ pH từ 5.5 – 6.5. Đất trồng xa khu công nghiệp, nghĩa trang, bệnh viện, nguồn nước thải, cách đường quốc lộ 100m.

– Đất cày bừa kỹ, làm sạch cỏ trước khi gieo.

– Lên luống 1,3 – 1,4m, mặt luống rộng 1,0 – 1,1m, cao 30cm.

3. Mật độ, khoảng cách

Khoảng cách: 75 – 80cm x 25 cm/1 cây – mật độ: 5 – 5,7 vạn cây/ha.

75 – 80cm x 45 cm/2 cây – mật độ: 6 – 6,3 vạn cây/ha.

* Chú ý: mướp đắng cần phải làm giàn, tiến hành cắm giàn khi cây cao 25 – 30 cm (cần 1000 – 1100 cây dóc/sào).

4. Phân bón

Tuyệt đối không được dùng phân chuồng tươi, phân bắc tươi và nước phân tươi để bón hoặc tưới.

4.1. Liều lượng phân chuồng: Bón lót 15 – 20 tấn/ha (550 – 740 kg/sào), cũng có thể dùng phân hữu cơ sinh học hoặc phân rác chế biến thay thế phân chuồng với lượng bằng 1/3 lượng phân chuồn

4.2. Liều lượng và phương pháp bón phân hoá học.

– Bón thúc:

+ Lần 1: cây có 4 – 5 lá thật.

+ Lần 2: bắt đầu nở hoa.

+ Lần 3: thu quả đợt 1.

+ Lần 4: thu quả đợt 3.

– Có thể dùng nitrat amôn, sulfat amôn thay cho urê, cloruakali thay cho kali sunphat hoặc các dạng phân hỗn hợp, phức hợp NPK để bón với liều nguyên chất tương ứng. Ngoài biện pháp bón vào đất, có thể phun qua lá các dung dịch dinh dưỡng đa lượng, trung lượng, vi lượng theo hướng dẫn sử dụng của hãng sản xuất.

Sử dụng nước phân ủ hoai mục tưới xen kẽ các đọt bón phân hoá học để duy trì sinh trưởng của cây.

– Làm cỏ, xới, vun kết hợp với 2 lần bón thúc dầu, chủ yếu xới đất và vun cao trước khi cắm giàn.

Chỉ thu hoạch sau khi bón đạm ít nhất 10 ngày.

5. Tưới nước

– Dùng nguồn nước tưới sạch (nước sông, giếng khoan) không dùng nguồn nước thải (bệnh viện, sinh hoạt…) chưa qua xử lý để tưới.

– Cần giữ độ ẩm đất 80-85% vào các đợt hoa cái nở rộ.

6. Phòng trừ sâu bệnh

– Giòi đục quả (Zeugodacus caudatus): phải chú ý phòng trừ sớm khi ruồi mới đẻ trứng, thường vào giai đoạn quả mới đậu hoặc còn non. Các loại thuốc có thể dùng: Sherpa 20 EC, Sumicidin 10 EC, Cyperan 25 EC. Thời gian cách ly tối thiểu 7 ngày.

– Sâu xanh (Hilecoverpa armigera): Sâu hại hoa và quả ở tất cả các thời kỳ. Có thể phòng trừ bằng các loại thuốc: Cyperan 25 EC, Mimic 20F, Sherpa 20EC. Thời gian cách ly tối thiểu là 7 ngày.

– Giòi đục lá (Liriảomyza sp.) làm trắng lá, ảnh hưởng lớn tới sinh trưởng của cây. Phòng trừ bằng các thuốc: Baythroid 50EC, Confidor 100SL, Ofatox 400 EC.

– Bệnh phấn trắng : hại chủ yếu trên lá, cần phòng trừ sớm bằng các thuốc: Anvil 5SC, Score 250EC, Bayfidan 25EC. Thời gian cách ly tối thiểu 10 ngày.

Khi sử dụng thuốc đều phải tuân theo hướng dẫn trên nhãn bao bì của từng loại thuốc.

7. Thu hoạch

– Sau khi gieo 48-50 ngày (giống địa phương) và 45-50 ngày (giống nhập nội) thì bắt đầu được thu quả (sau khi thụ phấn khoảng 7-10 ngày).

– Cần chú ý thu đúng thời kỳ chín thương phẩm để đạt cả năng suất và chất lượng.

– Cần tỉa bỏ quả bị sâu hại và quả nhỏ trong quá trình chăm sóc.

Nếu thực hiện đầy đủ quy trình này, năng suất có thể đạt từ 15,0-21,4 tấn/ha

TIN TỨC KHÁC :