Top 11 # Xem Nhiều Nhất Kỹ Thuật Trồng Lúa Om 4900 Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Vitagrowthheight.com

Giống Lúa Om 4900 Có Những Đặc Điểm Gì Nổi Bật?

Giống lúa thuần OM 4900 đã được lai tạo chọn lọc bởi các cán bộ khoa học tại Bộ môn di truyền chọn giống thuộc Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long (VLĐBSCL). Tác giả là chúng tôi Nguyễn Thị Lang và chúng tôi Bùi Chí Bửu. Phương pháp lai cổ truyền được áp dụng với giống bố là Jasmine 85 và giống mẹ là C53 (Lemont).

Trong quá trình chọn lọc các đời con lai có áp dụng kỹ thuật trợ giúp của dấu chuẩn phân tử (MAS= marker assisted selection) từ năm 2002. Mục đích đặt ra là kết hợp các đặc điểm di truyền cho năng suất cao, mùi thơm và hàm lượng amylose thấp.

Đặc tính sinh học của cây lúa

Thời gian sinh trưởng 95-100 ngày (vụ Xuân), 95-100 ngày (vụ Hè Thu).

Chiều cao cây trung bình 100-110cm

Khối lượng 1000 hạt: 29-30 gram, chiều dài hạt gạo 7,0 – 7,3mm.

Hạt gạo đẹp, trong, thon dài, hàm lượng amylose 16,0-16,8%, mùi thơm cấp 1.

Cơm ngon, mềm, dẻo.

Giống phản ứng với đạo ôn (cấp 5), rầy nâu (cấp 3-5), phản ứng trung bình với bạc lá, chịu mặn tốt, chống đổ ngã (cấp 1).

Chịu phèn, mặn 2-3‰, thích hợp vùng đất phèn, phèn mặn, phù sa.

Tiềm năng năng suất 7,0-8,0 tấn/ha.

Hơi nhiễm nhẹ với bệnh đạo ôn.

OM 4900 Lá nhỏ có thời gian sinh trưởng từ 90-95 ngày đối với vụ Hè Thu và Thu Đông, còn về vụ Đông Xuân còn phụ thuộc vào thời tiết và điều kiện canh tác và về mật độ gieo sạ có thể tăng thêm từ 3-5 ngày.

– Chiều cao cây từ 90-95 cm. Chịu phèn mặn từ 4-5‰.

– Đẻ nhánh khỏe, hơi cứng cây, lá cờ thẳng dạng lá hình lòng mo hơi héo, ít nhiễm sâu bệnh, rất dễ canh tác.

– Về phẩm chất gạo vì hạt lúa có vỏ trấu mỏng, hạt gạo dài, trong, cơm thơm và dẽo, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.

– Năng suất từ 7-8 tấn/ ha, nếu chăm sóc đúng theo quy trình và giỏi có thể năng suất lến đến 10 tấn/ ha, nhưng cũng phải đủ về các mặt kỷ thuật như về vùng đất nên tăng hoặc giảm số lượng giống và phân bón để cho thích hợp và vấn đề quan trọng là do thời tiết.

Kỹ thuật chăm sóc cây lúa OM

Chăm sóc như các giống khác, nhưng giống OM 4900 Lá Nhỏ này dạng lá hình lòng mo, có màu mở gà “vàng tranh” chứ không xanh như những giống khác, vì lý do này bà con không biết cứ bón phân thật nhiều cho lá xanh thì rất nguy hiểm đặc biệt là UREA.

Trước khi sạ bà con nên trục trạt cho đất nhão nhuyễn và trang bằng mặt ruộng, đánh rãnh thoát nước cứ 4-5m là 1 rãnh, đồng thời bón lót phân lân vôi có tác dụng khữ phèn, khữ chua và ngộ độc. Nếu có điều kiện bà con nên phun thuốc cỏ Diệt mầm và xữ lý thuốc trị ốc bưu vàng, đến khi sạ tháo nước ra và tiến hành kéo hàng theo chiều dài của đường thẳng cặp rãnh nước.

Đến 4-5 ngày sau khi sạ bà con đưa nước vào với mực nước ít “đủ để ngập mặt ruộng” nhằm để khống chế lúa cỏ lúa nền lên trong đám ruộng.

Đến 8-9 ngày sau khi sạ bà con tháo bỏ hết nước cho khô rồi đến ngày 10-12 ngày sau khi sạ đưa nước vào bón phân lần 1 là UREA 5kg + DAP 5kg + KALI 3kg + Con bò sữa 5kg. Tạo cho cây khỏe giảm tỷ lệ bệnh đầu vụ.

Đến 18 – 20 ngày bà con tháo bỏ hết nước cho khô, tiến hành phun gói Bidamin theo khuyến cáo nhằm giúp cho cây lúa ra chồi khỏe, hạn chế độ dài của thân và lá tạo cho thân cây cứng hơn, tăng số hạt trên bông, hạn chế sự đổ ngã, hạn chế sâu bệnh ở giai đoạn đẻ nhánh đến phân hóa đòng cho đến khi 22-23 ngày bà con tiến hành đưa nước vào tỉa dậm và khử lẩn, qua ngày sau bón phân tiếp lần 2 với liều lượng UREA 7kg + DAP 7kg + HUMIX 1kg đồng thời tiến hành phun thuốc ngừa bệnh cháy lá đầu vụ “nên ngừa hơn trị”, có thể tăng hoặc giảm lượng phân theo từng vùng đất và từng thời điểm mùa vụ.

Đến khi 36-38 ngày bà con tháo nước lần nữa cho khô và phun lại gói Bidamin theo khuyến cáo nhằm thúc đẩy sự tạo đòng to, tạo tỷ lệ thụ phấn cho cây sau này, đặc biệt là giúp cho cây có thân ngắn lại và cứng hơn, bộ lá cứng hơn và thẳng đứng, hạn chế được sâu bệnh ở giai đoạn trước và sau khi đòng trổ đến chín, trong thời gian này nên theo dõi lúa đến lúc 42-45 ngày khi lúa có tim đèn thì đưa nước vào và bón phân đón đòng trong thời gian này cây lúa có màu vàng tranh thì bà con chia làm 2 lần bón phân đón đòng rất hiệu quả:

Lần 1: 42-45 NSKS bón N 4kg + KALI 5kg + Con bò sữa 3kg + Cansibo 3kg + thuốc đặc trị sâu đục thân 1kg.

Lần 2: 48-50 NSKS bón N 2kg + KALI 3kg + Con bò sữa 2kg + Cansibo 2kg.Ý nghĩa của 2 lần bón nhằm hỗ trợ số cây con cho đủ dinh dưỡng cùng cây mẹ. Bà con có thể giảm lượng phân N (UREA) tùy theo màu sắc của lá và tùy theo mùa vụ , khi bón phân xong tiến hành khử lẫn lần 2.

Đến thời điểm này bà con nên kiểm tra bệnh cháy lá, đốm vằn, vàng lá nếu có dấu hiệu thì bà con nên phun ngừa các loại thuốc đặc trị là tốt nhất và có độ an toàn cho cây lúa cao hơn, không nên để có bệnh rồi mới phun.

Đến khi lúa chuẩn bị trổ lát đát là từ 60-65 ngày bà con nên tháo bỏ nước cho khô đợi đến khi lúa trổ đưa nước vào cho ngập gò và giữ nước lại phun thuốc trị vi khuẩn, nấm đạo ôn, lem lép hạt, nhện gié, có thể phun thêm KALI dạng hòa tan và HUMIX cho trổ vào gạo nhanh hơn, đến thời điểm này tiến hành khử lẩn lần 3.

Đến khi lúa trổ điều bà con phun thêm thuốc như trên là cho an toàn và không nên phun các chất kích thích như siêu to hạt hoặc GA3 cho lớn hạt, nó sẽ làm hư hạt và nức hạt rất dễ bị đổ ngãn thì thất mùa là cái chắt.

Kỹ Thuật Trồng Rau Ngò Om

Ngày đăng: 2016-01-20 06:21:12

Cây ngò om hay còn gọi là rau om, ngổ om có tên khoa học là Limnophila aromatica thuộc họ Mã Đề (Plantaginaceae), đây là loại rau thơm rau gia vị vùng nhiệt đới được sử dụng nhiều trong các món ăn Việt Nam.

Vì ngò om có thể mọc hoang dựa mé rạch hay trong bùn ruộng nhưng khi trồng trong chậu tại nhà khá phức tạp, trongraulamvuon xin hướng dẫn cách trồng rau ngò om tại nhà như sau.

1. Chọn giống và đất trồng rau om

Nhân giống rau ngò om bằng cách giâm gốc, cắt gốc hom rau om dài khoàng 15-18 cm, ghim vào chậu phần gốc có dính rễ non.

Chọn đất trồng rau om phải là đất nhiều mùn giữ ẩm tốt, nên sử dụng đất dinh dưỡng phân trùn quế hay đất trồng rau, đặc tính cần lưu ý là rau ngò om không thích hợp với giá thể mới trộn , dùng chậu nhựa có đường kính miệng 20 cm, cho đất dinh dưỡng vào 2/3 chậu, sao đó ghim 3-4 hom giống rau ngò om vào một chậu, nhớ đặt hom nghiêng góc 30o và chèn chặt không cho lay gốc. Để chậu rau mới trồng nơi mát hay có ánh sáng ít nắng, khi thấy cây mọc tốt thì đưa ra nơi có độ chiếu sáng 60-70 %.

Thời gian để rau ngò om ra rễ mới khá lâu khoảng 15-20 ngày, nên tưới nước ngày 2 lần cho ướt đẫm bằng vòi phun nhẹ.

2. Hướng dẫn cách chăm sóc và bón phân cho cây ngò om

Rau ngò om ít khi bị sâu bệnh, khi cây giống rau ngò om đã phát triển thường cho nhiều chồi con xung quanh và cây mọc cao từ 25-30 cm là có thể thu hoạch.

Có thể dùng phân Urê hay DAP với liều dùng 1 muỗng cà phê pha lít nước tưới lúc chiều mát, hoặc chỉ bón thêm lớp đất dinh dưỡng phân trùn quế vào mặt chậu lớp 2-3 cm mỗi khi thu hoạch.

3. Thu hoạch

Khi thu hoạch nhớ dùng dao bén sạch cắt qua ngang thân rau om chỉ chừa lại khoảng 3 cm từ mặt chậu, bón thêm phân hữu cơ rồi tiếp tục tưới nước bình thường, sau 40-45 ngày là có thể cắt đợt mới.

Sau 3-4 tháng là rễ rau ngò om hết chất dinh dưỡng, lá nhỏ dần hơi ngã vàng, cần phải thay chậu lớn hơn để giúp rau phát triển lâu dài.

4. Vị thuốc từ rau ngò om

Trong y học cổ truyền khuyên dùng rau ngò om trị sạn thận bào nhỏ sạn để dễ dàng cho sạn ra ngoài bàng quang, thuốc lợi tiểu hay giảm đau thắt lưng, có thể dùng tươi rau ngò om giã chắt lấy nước uống hay dùng dạng phơi khô.Vị thuốc từ rau om khá an toàn không có độc tố.

Tuy nhiên rau ngò om mọc ngoài thiên nhiên do nguồn nước tự nhiên thường bị ô nhiễm cần cẩn thận đề phòng bị nhiễm khuẩn gây rối loạn tiêu hóa, phải rửa sạch rau ngò om mua ngoài chợ trước khi dùng.

Ngọc Hân – Trồng rau trong vườn

TIN TỨC KHÁC :

Kỹ Thuật Trồng Lúa Đạt Năng Suất Cao

Cây Lúa là một trong những cây lương thực quan trọng, chiếm diện tích trồng lớn và có sản lượng cao ở nước ta. Tuy nhiên trước những biến đổi khó lường của điều kiện khí hậu thì việc áp dụng những giải pháp kỹ thuật hiện đại và trong trồng cấy và chăm sóc là việc làm rất cấp thiết để tăng năng suất và nâng cao hiệu quả kinh tế. Xử lý hạt giống bằng chế phẩm sinh học CQ

Thời kì ngâm giống: dùng 7ml sản phẩm hòa với 14lít nước ngâm hạt giống trong vòng từ 6 đến 8h sau đó vớt ra ủ giống. Sẽ giúp hạt giống nẩy mầm đều, tăng tỉ lệ nảy mầm lên tới 95 đến 98%, mầm mập hơn, khi mang hạt giống đi gieo, cây non sẽ nhanh ngồi hơn.

Bón lót:

– Ruộng bị phèn nên bón lót phân lân (Ninh Bình, Văn Điển, Long Thành):

+ Phèn trung bình: bón 200kg/ha

+ Phèn nặng: bón 400kg/ha

Lưu ý nếu bón Lân Long Thành cần phải làm đất xong, tháo nước, sạ giống xong mới bón phân. Sau bón phân không được tháo nước sẽ mất phân.

Thời kì 5-7 ngày sau sạ: dùng 7ml sản phẩm pha với 20 đến 23lít nước phun đều một lượt. Sẽ giúp cây non cứng cây hơn, nhanh chóng bén rễ, tăng cường sự dinh dưỡng giúp phát triển lá non . . .

– Bón phân đợt 1 (7-10 ngày sau sạ):

– 100kg phân lân + 50kg Urê/ha

Ghi chú: đất gò cao, đất xấu, đất 3 vụ lúa ngoài định mức trên cần tăng 50-100kg phân lân, 20kg Urê, 30kg KCl cụ thể là: 150-200kg phân lân + 70kg Urê + 30kg KCl.

– 17 đến 18 ngày sau sạ: tiến hành cấy dằm bằng cào 3 răng, nhổ chỗ dày, cấy ra chỗ thưa

– 18 đến 20 ngày sau sạ: Sử dụng Chế phẩm sinh học CQđể kích hoạt tiếp tục đẻ nhánh hữu hiệu mạnh, tập trung, chuẩn bị bón phân đợt 2. Nên rà vòi phun phân bón là chỗ mới cấy dặm, chỗ lúa xấu, chỗ gò cao cho ăn phân bón lá nhiều hơn để sử ruộng cho đều.

Bón phân đợt 2 (20-22 ngày sau sạ):

– 100kg phân lân + 50kg Urê/ha (lúa sinh trưởng bình thường)

Ghi chú:

– Lúa xấu, đẻ nhánh kém ngoài định mức trên cần tăng 50kg phân lân, 20kg Urê, cụ thể là: 150kg phân lân + 70kg Urê/ha

– Lúa tốt: có thể giảm còn 50kgphân lân + 30-40kg Urê/ha

– Lúa dài ngày (trên 100 ngày) có thể dời ngày bón phân đợt 2 đến 25 ngày sau sạ .

– 30-32 ngày sau sạ, khi ruộng lúa đã đẻ kín hàng, tiến hành cắt nước để giúp lúa làm đòng thuận lợi. Lúc này nông dân không nên bón thêm phân gốc sẽ phát sinh nhiều chồi vô hiệu, nên hết sức bình tĩnh chờ đợi cho đến lúc ruộng lúa chuyển sang màu vàng tranh sẽ lấy nước vô ruộng để bón phân đón đòng.

– Bón phân đón đòng theo kỹ thuật “Không ngày, không số”

+ Ngày nào có ít nhất 2/3 ruộng lúa chuyển sang màu vàng tranh sẽ bắt đầu tiến hành bón phân. Cần xác định chính xác diện tích phần màu vàng, phần màu xanh đậm, phần màu xanh lợt để tính toán lượng phân bón thật đúng theo định mức sau:

+ Chỗ màu vàng tranh: bón 50kg Urê + 50 kg Kali/ha

+ Chỗ màu xanh đậm (đã dư phân): chỉ bón 100kg Kali/ha (tuyệt đối không bón Urê)

+ Chỗ xanh lợt (hơi dư phân): bón 25kg Urê + 75kg Kali/ha

Lưu ý: trước khi bón phân đón đòng nên xịt chế phẩm sinh học CQ để giúp ruộng lúa hấp thu phân tốt, thân đứng, lá cứng, xanh và dầy hơn, tăng cường khả năng quang hợp, giảm áp lực sâu bệnh, giảm tác hại phèn (nếu có).

– Bón phân rước hạt (bằng cách sử dụng phân bón lá)

Ghi chú: – Giá phân bón được tính trung bình là: Urê: 6.000đ/kg (300.000đ/bao), phân lân nội (Văn Điển, Ninh Bình, Long Thàn: 100.000đ/bao), KCl: 400.000đ/bao, phân bón lá Humate, Super Humate (60.000đ/lít, mỗi lần phun 1 lít/ha), công phun 4.000đ/bình (phun 2 bình/công1000m2)

– Đợt 1 và đợt 2 nếu đất quá xấu, ruộng lúa sinh trưởng kém có thể tăng phân Urê thêm 10-20kg/ha/đợt.

– Bón phân đón đòng tuyệt đối phải theo kỹ thuật “không ngày, không số” đã hướng dẫn kỷ phần trên. Không bón đón đòng bằng DAP, NPK lúa sẽ phát triển thân lá, kéo dài thời gian trổ, tăng tỷ lệ lép, nhiều sâu bệnh.

– Có thể pha chung thuốc sâu với phân bón lá Humate. Riêng thuốc bệnh chỉ pha với Humate khi phòng bệnh (chưa có bệnh), khi mới phát hiện bệnh (vừa chớm). Khi bệnh đang nhiều, không pha Humate với thuốc bệnh, phải sử dụng thuốc đặc trị phun cho dứt bệnh sau đó mới được dùng Humate phun cho lúa phục hồi.

– Tổng cộng có 7 kỳ (7K) phun xịt phân bón lá, nếu có điều kiện bà con nông dân sẽ phun xịt đủ 7K, nếu không có điều kiện thì xịt giảm lại vẫn có tác dụng giúp lúa phát triển tốt.

Dự kiến giá lúa vụ ĐX sẽ tăng đạt từ 3.600-3.700đ/kg nếu năng suất đạt 7 tấn/ha tính ra tổng thu trên 25 triệu đồng/ha, chi phí đầu tư theo qui trình bón phân hợp lý nêu trên (trung bình 8 triệu đồng/ha) nông dân sẽ có lãi ít nhất là 17 triệu đồng/ha.

Kỹ Thuật Chuyển Đổi Trồng Ngô Trên Đất Trồng Lúa

Đất lúa đang canh tác 2 vụ lúa/năm và 3 vụ lúa/năm, có thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình, pH KCl từ 5,0 – 6,0, chủ động tưới, tiêu và thoát nước tốt.

2. Kỹ thuật canh tác – Giống và phẩm cấp hạt giống:

Sử dụng các giống ngô lai có thời gian sinh trưởng từ 90 – 100 ngày trong vụ Hè Thu và Thu. Chống chịu với điều kiện nóng, hạn, tương đối sạch sâu bệnh hại và cho năng suất cao như CP333, LVN61, LVN66, PAC999,…

– Thời vụ gieo trồng ở vùng Duyên hải Nam Trung bộ:

+ Vụ Hè trên chân đất 3 vụ lúa theo cơ cấu chuyển đổi Lúa – Ngô – Lúa, thời gian gieo trồng từ ngày 15/3 – 10/4.

+ Vụ Hè Thu trên chân đất 2 vụ lúa theo cơ cấu chuyển đổi Lúa – Ngô, thời gian gieo trồng từ ngày 25/5 – 15/6.

– Làm đất:

+ Đối với chân đất 2 vụ lúa/năm:

— Sau khi thu hoạch lúa tiến hành bón vôi trên mặt ruộng và tiến hành cày ải với độ sâu từ 20 – 25 cm.

— Trước khi gieo trồng khoảng 5 – 6 ngày, tiến hành cho nước vào láng mặt ruộng, sau 2 – 3 ngày độ ẩm đất thích hợp (khoảng 70 – 80%) tiến hành bón phân hữu cơ đều trên mặt ruộng kết hợp vệ sinh đồng ruộng, sau đó tiến hành phay cho đến khi đất tươi nghuyễn (thường phải phay từ 2 – 3 lượt).

— Sau khi phay, tiến hành lên luống với chiều dài, rộng và cao theo mật độ gieo trồng (trình bày bên dưới).

+ Đối với chân đất 3 vụ lúa/năm:

— Sau khi thu hoạch lúa, tiến hành cho nước vào láng mặt ruộng, sau 2 – 3 ngày độ ẩm đất thích hợp (khoảng 70 – 80%) tiến hành phay lần thứ nhất, kết hợp vệ sinh đồng ruộng.

— Sau khi phay lần thứ nhất tiến hành bón vôi và phân hữu cơ đều trên mặt ruộng, sau đó tiến hành phay cho đến khi đất tươi nghuyễn (thường phải phay 2 lượt).

— Sau khi phay, tiến hành lên luống với chiều dài, rộng và cao theo mật độ gieo trồng (trình bày bên dưới).

– Phương thức trồng và bón phân:

+ Mật độ trồng và lượng phân bón đầu tư cho 1,0 ha:

+ Phương pháp bón phân:

— Bón vôi trước khi tiến hành cày ải đất.

— Bón lót toàn bộ lượng phân chuồng, phân lân (trường hợp sử dụng phân đơn)

— Liều lượng từng loại phân bón cho các lần bón như sau:

– Chăm sóc:

+ Phòng trừ cỏ dại sau gieo: Tiến hành phun các loại thuốc trừ cỏ như Dual 720 EC, Dual Gold 960 EC, Mizin 80 WP sau gieo từ 1-3 ngày, chú ý không gieo hạt quá nông dễ tiếp xúc với thuốc gây chết hạt.

+ Trồng dặm: Tiến hành dặm vào những chỗ hạt không mọc vào thời điểm 5 – 7 ngày sau gieo. Có thể dặm bằng hạt khô, hạt đã ủ mọc mầm.

+ Xới xáo phá váng: Khi ngô được 2 – 3 lá, tiến hành xới xáo nhẹ trên luống để làm sạch cỏ và phá váng bề mặt, tạo độ thông thoáng cho đất.

+ Làm cỏ, vun gốc lần 1: Khi ngô được 3 – 4 lá, tiến hành xới xáo làm cỏ và bón phân thúc lần 1, sau đó vun đất lên luống lấp kín phân.

+ Làm cỏ, vun gốc lần 2: Khi ngô được 6 – 7 lá, trước khi bón phân thúc lần 2 cần làm sạch cỏ trên luống, sau đó vun đất lấp phân lại, chú ý vun đất cao lên luống để giúp cây chống đổ tốt hơn.

+ Tuốt lá: Khi hạt ngô bắt đầu vào chắc, có thể tiến hành tuốt lá ngô tạo độ thông thoáng cho đồng ruộng hạn chế sự phát triển của sâu bệnh hại đặc biệt là bệnh khô vằn. Chú ý chỉ tuốt lá đến vị trí 2 lá nằm dưới lá mang bắp để không gây ảnh hưởng đến năng suất.

– Tưới, tiêu nước:

+ Áp dụng phương pháp tưới thấm theo rãnh để tưới cho cây ngô.

+ Cần chú ý tưới nước ở các thời kỳ quan trọng của cây: Thời kỳ cây có từ 3 – 4 lá (cây chuyển sang lấy chất dinh dưỡng từ đất); Thời kỳ 6 – 9 lá: Cây bắt đầu hình thành cơ quan sinh thực (bông cờ, chồi bắp); Thời kỳ trước trổ cờ 15 ngày đến sau trổ cờ 15 ngày. Tuy nhiên tùy thuộc vào diễn biến thời tiết, nếu nắng nóng kéo dài, ruộng ngô có biểu hiện thiếu nước cần tưới bổ sung kịp thời để hạn thiệt hại có thể xảy ra do thiếu nước tưới.

+ Tiêu nước: Đảm bảo hệ thống mương rãnh thoát nước tốt, tránh để tình trạng ngập úng xảy ra.

– Các đối tượng sâu, bệnh hại chính và phun phòng trừ khi đến ngưỡng kinh tế:

+ Sâu xám: Sử dụng bả chua ngọt (4 mật hoặc đường đen + 4 dấm + 1 rượu + 1 nước + 1% thuốc sâu) để diệt thành trùng (bướm) vào đầu vụ. Xử lý đất trồng bằng các loại thuốc hạt như Vibasu10H, Diazan10H trước khi gieo trồng. Trường hợp sâu gây hại với mật độ 2 con/m 2 và 10% số cây hại có thể phun các loại thuốc Sumithion 50EC, Proclaim 1.9EC vào thời điểm 5 – 6 giờ chiều để đạt hiệu quả cao nhất.

+ Khi sâu đục thân hoặc bắp xuất hiện gây hại trên 20% cây hoặc 20% bắp và sâu khoang xuất hiện với mật độ 20 con/m 2 tiến hành sử dụng các loại thuốc hạt để rắc vào noãn ngô như Vibasu10H, Diazan10H, Regent 0,3G hoặc phun các loại thuốc có tác dụng nội hấp, lưu dẫn và có hiệu lực phòng trừ kéo dài như Dupont Prevathon 5SC, Voliam Targo 063SC, Virtako 40WG.

+ Khi 20% sô cây bị bệnh khô vằn tiến hành sử dụng Validacin 3L, Anvil 5SC, Rovral 50WP/500WG/750WG để phun phòng trừ.

– Thu hoạch:

+ Quan sát đồng ruộng thấy các lá dưới trái đã khô, lá bi chuyển vàng, tách hạt thấy có vết đen ở chân hạt thì tiến hành thu hoạch vì lúc này ngô đã chín sinh lý.

+ Vận chuyển về sân phơi, sau đó tách bỏ lá bi và dàn mỏng, phơi từ 1-2 nắng là có thể tách hạt bằng máy, cần phơi hạt ngô thêm từ 1 – 2 nắng để đạt ẩm độ hạt khoảng 14%.

+ Áp dụng cơ giới trong thu hoạch và sơ chế: Thu trái tại ruộng, tách hạt bằng máy và chuyển sang máy sấy khô để đạt ẩm độ hạt khoảng 14%.

KỸ THUẬT CHUYỂN ĐỔI TRỒNG LẠC TRÊN ĐẤT TRỒNG LÚA VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ VÀ TÂY NGUYÊN

Viện KHKT Nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ (ASISOV)

1. Phạm vi áp dụng

Vùng quy hoạch chuyển đổi trồng cây trồng cạn trên đất lúa ở vùng Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên.

Đất lúa đang canh tác 2 vụ lúa/năm và 3 vụ lúa/năm, có thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình, pH KCl từ 5,0 – 6,0, chủ động tưới, tiêu và thoát nước tốt.

2. Kỹ thuật canh tác – Giống và phẩm cấp hạt giống:

+ Sử dụng các giống lạc có thời gian sinh trưởng < 100 ngày (ở vùng Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên) và kháng hoặc kháng vừa bệnh héo xanh vi khuẩn như LDH.01, L14, L23, LDH.10,…

+ Sử dụng hạt giống phẩm cấp xác nhận để gieo trồng.

– Thời vụ gieo trồng:

+ Đối với vùng Duyên hải Nam Trung bộ:

— Vụ Hè trên chân đất 3 vụ lúa, thời gian gieo trồng từ ngày 2/4 – 12/4.

— Vụ Hè Thu trên chân đất 2 vụ lúa, thời gian gieo trồng từ 15/5 – 25/5.

+ Đối với vùng Tây Nguyên:

— Vụ Đông Xuân trên chân đất 2 vụ lúa, thời gian gieo từ ngày 15/12 – 5/1.

– Làm đất:

+ Đối với chân đất 2 vụ lúa/năm:

— Sau khi thu hoạch lúa tiến hành cày ải với độ sâu từ 20 – 25 cm và phơi ải.

— Trước khi gieo trồng khoảng 5 – 6 ngày, cho nước vào láng mặt ruộng, sau 2 – 3 ngày độ ẩm đất thích hợp (khoảng 70 – 80%) tiến hành vãi vôi, lân, đạm, kali và phân hữu cơ đều trên mặt ruộng kết hợp vệ sinh đồng ruộng, sau đó tiến hành phay cho đến khi đất tươi nghuyễn (thường phải phay từ 2 – 3 lượt) và kết hợp tạo luống.

— Sau khi phay, tiến hành chỉnh trang luống với chiều rộng từ 1,0m, cao từ 15 – 20 cm và dài tùy theo diện tích của đồng ruộng. Giữa 2 luống tạo rãnh thoát nước với chiều rộng từ 20 – 25 cm và sâu 15 – 20 cm.

+ Đối với chân đất 3 vụ lúa/năm:

— Sau khi thu hoạch lúa, tiến hành cho nước vào láng mặt ruộng, sau 2 – 3 ngày độ ẩm đất thích hợp (khoảng 70 – 80%) tiến hành phay lần thứ nhất, kết hợp vệ sinh đồng ruộng.

— Sau khi phay lần thứ nhất tiến hành vãi vôi, lân đạm, kali và phân hữu cơ đều trên mặt ruộng, sau đó tiến hành phay cho đến khi đất tươi nghuyễn (thường phải phay 2 lượt) và kết hợp tạo luống.

— Sau khi phay, tiến hành chỉnh trang luống với chiều rộng từ 1,0m, cao từ 15 – 20 cm và dài tùy theo diện tích của đồng ruộng. Giữa 2 luống tạo rãnh thoát nước với chiều rộng từ 20 – 25 cm và sâu 15 – 20 cm.

– Gieo trồng và khoảng cách gieo trồng:

+ Chuẩn bị hạt giống: Trước khi gieo trồng 2 – 3 ngày, tiến hành bóc vỏ lấy nhân, loại bỏ những hạt lép, vỡ và có vết thâm đen.

+ Gieo trồng 4 hàng/luống với khoảng cách hàng cách hàng 20 – 25 cm và cây cách cây 10 – 12cm, gieo 1 hạt/hốc.

+ Gieo với độ sâu lấp hạt từ 3 – 4 cm, nếu đất khô thì lấp sâu hơn.

+ Sau khi gieo 5 – 6 ngày, tiến hành ngâm ước và ngủ một số hạt dự phòng để tỉa dặm vào những hốc không mọc hoặc bị chim, chuột ăn.

– Phân bón và phương thức bón phân:

+ Lượng phân bón đầu tư cho 1,0 ha: 5 tấn phân chuồng hoai đã ủ với chế phẩm Trichoderma (tốt nhất là sử dụng phân chuồng, nếu không thể có thì thay thế bằng 500 kg phân hữu cơ vi sinh Sông Ganh hoặc loại tương tự), 500 kg vôi, 30 kg N, 90 kg P 2O 5 và 60 kg K 2 O (tương ứng với 65,5 kg phân Urê , 562,5 kg phân supper Lâm Thao và 109 kg phân Clorua Kali).

+ Phương thức bón phân:

— Bón lót toàn bộ lượng phân chuồng hoặc phân hữu cơ vi sinh, phân lân, ½ phân đạm, ½ phân kali và ½ lượng vôi vào lúc trước khi phay đất đối với chân ruộng 2 vụ lúa/năm và trước khi phay lần 2 đối với chân ruộng 3 vụ lúa/năm.

— Bón thúc lần 1 vào thời điểm cây có 2 – 3 lá thật (sau gieo khoảng 12 – 15 ngày) với lượng ½ phân đạm và ½ phân kali.

— Bón thúc lần 2 vào thời điểm cây ra hoa rộ (sau gieo khoảng 27 – 30 ngày) với ½ lượng vôi còn lại.

– Chăm sóc:

+ Tỉa, dặm ngay sau khi cây lạc mọc.

+ Xới xáo làm cỏ kết hợp với bón thúc đợt 1 vào lúc lạc mọc từ 12 – 15 ngày.

+ Làm cỏ đợt 2 kết hợp bón thúc vun cao gốc khi lạc chuẩn bị ra hoa.

+ Tưới nước:

— Tưới nước cho cây lạc theo phương thức tưới rãnh (chỉ cho nước vào vừa ngập rãnh và để cho nước ngấm vào các băng trồng lạc), không được tưới tràn.

— Trong giai đoạn cây ra hoa đậu và đậu quả cần tưới để đảm bảo ẩm độ đất từ 80 – 85%, các giai đoạn còn lại cần tưới để đảm bảo ẩm độ đất khoảng 70%. Do vậy, để đảm bảo ẩm độ đất cho cây lạc, có thể tưới rãnh định kỳ khoảng 7 – 15 ngày/lần (tùy theo thành phần cơ giới của đất nhẹ hoặc trung bình) tính từ thời điểm cây mọc với lượng nước từ 400 – 600 m 3/ha.

— Khi trời mưa phải thoát hết nước trong rãnh ra khỏi ruộng và đất bị đóng váng, cần xới nhẹ phá váng ngay khi đất vừa khô để đảm bảo thông thoáng cho bộ rễ.

+ Sau gieo hạt từ 1 – 3 ngày dùng thuốc trừ cỏ tiền nảy mầm: Dual gold 960EC pha 20 – 25 ml thuốc vào bình 10 lít nước, phun 2 bình/500 m 2. Khi phun thuốc đất phải đủ ẩm, nếu đất quá khô cần phun một lượt nước lên luống trước khi phun thuốc.

+ Trong trường hợp ruộng lạc có cỏ lá hẹp hoặc quá nhiều cây lúa mọc lại (do rụng cơ giới từ vụ lúa trước) cần tiến hành dùng thuốc trừ cỏ hậu nẩy mầm: Targa super với liều lượng sử dụng: 0,8 – 1,2 lít/ha, phun khi cây lúa hoặc cỏ được 3 – 5 lá. Chú ý: Phun thuốc bám ướt đều trên mặt cây lúa hoặc cỏ.

– Các đối tượng sâu, bệnh hại chính và phun phòng trừ khi đến ngưỡng kinh tế:

+ Sâu xám ( Agrotis ypsilon Rott): Xuất hiện ở giai đoạn cây con từ khi gieo lạc đến khi cây có 3 lá thật. Phòng trừ: dùng thuốc Regent 800 WG (pha gói 16 gram/bình 16 lít/500 m 2).

+ Sâu khoang ( Spodoptera litura Fabr): Sâu trưởng thành xuất hiện ở giai đoạn cây lạc sau khi gieo được 15-20 ngày và phá hoại nặng nhất ở giai đoạn tạo quả đến vào chắc. Phòng trừ: dùng thuốc Kinalux 25EC pha 20-40 ml/bình 8 lít, phun 5 bình/1.000 m 2.

+ Bọ trĩ ( Scirtothrips dorsalis Hood): Xuất hiện sau khi cây lạc gieo khoảng 15-20 ngày và đến khi thu hoạch. Phòng trừ: dùng thuốc Confidor 100SL, pha 10 ml/bình 16 lít/500 m 2; Dragon 585 EC, pha 10ml/bình 8 lít phun 4 bình/1.000 m 2.

+ Rầy xanh ( Empoasca motti Pruthi): Xuất hiện sau khi cây lạc gieo khoảng 15-20 ngày và đến khi thu hoạch. Phòng trừ: dùng thuốc Bassa 50EC (pha 20 ml/bình 8 lít, phun 4 bình/500 m 2), Admire 200 OD (lượng thuốc 200 ml/ha) , Trebon 10 EC (lượng thuốc 700 ml/ha).

+ Rệp hại lạc ( Aphis craccivora Koch): Xuất hiện sau khi cây lạc gieo khoảng 15-20 ngày và đến khi thu hoạch. Phòng trừ: dùng thuốc Admire 200 OD (lượng thuốc 200 ml/ha), Applaud 10 WP (lượng thuốc 0,8 – 1,0 kg/ha phun với 400 – 500 lít nước/ha).

+ Bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) và gỉ sắt (Puccinia arachidis): Xuất hiện ở giai đoạn cây lạc sau khi ra hoa – tạo quả và đến chín. Phòng trừ: dùng thuốc Daconil 200SC (1,5 lít/ha); Folicur 250EW (0,75 lít/ha); Anvil 5SC (1,0 lít/ha).

+ Bệnh héo rũ nấm hại lạc: Gồm bệnh héo rũ gốc mốc trắng ( Sclerotium rolfsii Sacc); Bệnh héo rũ gốc mốc đen (Aspergillus niger); Bệnh héo rũ thối gốc lở cổ rễ do nấm Rhizoctonia spp và Fusarium spp. Bệnh xuất hiện ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây lạc. Phòng trừ: dùng thuốc Sumi eight 12,5 WP (0,02 – 0,03%); Topsin M 70WP (0,4 – 0,6 kg/ha); Dithane M45 80WP (1 – 2kg/ha).

+ Bệnh héo xanh vi khuẩn hại lạc ( Pseudomonas (Ralstonia) solanacearum Smith): Bệnh xuất hiện ở giai đoạn cây lạc bắt đầu ra hoa đến khi thu hoạch. Phòng trừ: hiện nay chưa có thuốc trị bệnh chỉ dùng phòng bệnh như sau: luân canh, giống kháng bệnh, xử lý hạt giống, dùng chế phẩm sinh học đối kháng Pseudomonas cepacia, Ps. fluorescens….

– Thu hoạch, làm khô, làm sạch và bảo quản:

– Thu hoạch: Chọn ngày nắng ráo để thu hoạch, thu hoạch khi quả già chiếm 80 – 85% số quả trên cây. Sau khi nhổ, sử dụng máy tuốt để vặt quả, phơi dưới nắng nhẹ (hoặc sấy nếu gặp mưa) đến khi vỏ lụa tróc là được.

– Hạt lạc sau khi phơi hoặc sấy khô đạt độ ẩm 14%, để nguội rồi cho vào bao nilon kín, để trong chum vại để bảo quản./.