Cập nhật nội dung chi tiết về Tổng Quan Về Nước Tưới Cho Lan mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Tuỳ độ giữ nước của giá thể mà ta cân đối lượng nước tưới. Chậu nhỏ cần tưới thường xuyên hơn là chậu lớn.
TÓM TẮT VỀ TƯỚI NƯỚC KHI TRỜI LẠNH VÀ TIÊU CHUẨN TƯỚI NƯỚC:
Nên tưới lúc thời tiết ấm áp, nhiệt độ của nước nên bằng nhiệt độ của đất, thời điểm tưới nên cân bằng độ ẩm trong 1 ngày.
Đối với phần lớn loại lan,để ý giá thể khô mới đc tưới tiếp (quy tắc 2 ướt 1 khô). Theo kinh nghiệm nghiên cứu thực tiễn và cả khoa học thì nếu tưới 1 lần trong ngày thì nên tưới lúc 10h sáng. Trời lạnh hanh khô mất nước nhanh, nhất là dòng rễ gió như đai châu, giá thể giữ nước kém thì tưới 2 lần. Tưới vào 7h sáng để rửa sương muối đọng lá và 1 lần vào 3-4h chiều.
Số lượng nước bằng kích cỡ giò lan (hoặc tưới cho giò lan chảy nước xuống/ đẫm giá thể/ phun bép 25′) , nhiệt độ bằng nhiệt độ của đất, nước tốt nhất là nước mưa đã ngâm 4-5 ngày. Độ pH của nước cần ở mức từ 5,5 đến 6,8 và độ muối trong nước cần phải dưới 500 ppm. Lạnh dưới 10 độ thì ko nên tưới và ko được tưới buổi đêm gây nguy cơ đốm lá/ thối bẹ lá.
Thời gian này thân thòng sắp vào kỳ nghỉ, phải kiểm tra thường xuyên các đốt của lá. Nếu thấy các đốt lá ở phần giữa thân phình to ra là khi cây đã hấp thụ đc đủ dinh dưỡng khoáng chất để nuôi hoa . Thân giữa phình to thì giảm nước dần dần ..
Sau khi thấy nó vàng 3-4 lá gốc thì lúc đó ta cắt nước và ngừng bón phân hoàn toàn. Và thi thoảng tưới cho giá thể không bị khô và không khô rễ .(thường thì 1 tuần phun sương ẩm 1 lần vào gốc) Tới thời kỳ kích bông thì tạo độ ẩm mùa xuân nhân tạo tốt để cho hoa tùy thời điểm mong muốn.
TƯỚI NƯỚC BÓN PHÂN PHÙ HỢP VỚI KỲ SINH TRƯỞNG
VD CHU KỲ PHÁT TRIỂN CỦA PHI ĐIỆP VÀ HOÀNG THẢO NÓI CHUNG
– Mùa xuân là thời kỳ nảy mầm và ra nụ từ giả hành đã trút hết lá từ mùa đông năm trước. (tưới nước dần dần trở lại khi thấy cây đâm chồi non lớn 1 chút ) – Mùa hạ thu là mùa phát triển (tưới nước nhiều) – Cuối thu thì thân sẽ thắt ngọn, ko sinh lá mới (giảm tưới dần) – Mùa đông thì lá sẽ vàng và rụng dần từ lá ở gốc. Rồi sau đó trút hết lá là chính thức vào mùa nghỉ. (cắt nước) (Tham khảo kn anh Nguyễn Ngọc Sơn, anh Lê Hoàng Nam) – Giai đoạn phát triển bắt đầu khi thân mẹ nhú nụ và thân con mọc gốc mẹ bắt đầu mọc.Sau khi thân mẹ nở hoa xong thì thân mẹ dồn sức nuôi thân con,giai đoạn này cây con chưa rễ thì sống nhờ bầu sữa mẹ,cây mẹ càng mập cây con càng bụ. Giai đoạn này không chưa cần bón phân – Thân tơ bén rễ thì giai đoạn này là giai đoạn phát triển,cây cần nắng,gió nếu thân nhỏ và yếu cần bổ sung thêm phân tăng trưởng. – Khi cây thắt ngọn: Vẫn tiếp tục tưới sáng đẫm 2 lần sáng tối như bình thường, tùy mưa nắng thế nào mà bạn cân đối tưới nước , chủ yếu tập trung vào gốc. (Lúc này cây ngừng phát triển chiều dài mà tập trung tích dinh dưỡng vào thân)
Thời điểm cắt nước: Thời gian này phải kiểm tra thường xuyên các đốt của lá. Nếu thấy các đốt lá ở phần giữa thân phình to ra là khi cây đã hấp thụ đc đủ dinh dưỡng khoáng chất để nuôi hoa. Thân giữa phình to thì giảm nước dần dần ..
Sau khi thấy nó vàng 3-4 lá gốc thì lúc đó ta cắt nước và ngừng bón phân hoàn toàn. Và thi thoảng tưới cho giá thể không bị khô và không khô rễ .(thường thì 1 tuần phun sương ẩm 1 lần vào gốc)
Nếu để các đốt ngọn phình ra thì mới cắt nước cây sẽ rất rễ ra keki. Kiểm tra giá thể ko để khô quá hỏng rễ và teo cây. Ko để ẩm cây nên keki và bị thối rễ.
Nếu thân thân tóp ta chỉ 1 tuần phun sương ẩm ít thôi vào gốc 1 lần, tránh tưới giả hành mục đích chính là tránh tóp thân. Nêu thân vẫn căng mập thì ko cần.
HƯỚNG DẪN CHI TIẾT CÁCH TƯỚI
Tưới nước cho hoa cũng là một trong những vấn đề có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng, phát triển của lan. Vấn đề tưới nước thế nào cho lan là phù hợp nhất được đặt lên hàng đầu.
Khi tưới nước cho lan phải chú ý đến các vấn đề như mưa, nắng nhiệt độ, độ ẩm tiểu khí hậu vườn, sự thông gió của vườn, đặc điểm giá thể , loài lan, chu kỳ sinh trưởng,…mỗi nhà vườn sẽ có những cách tưới khác nhau tùy thuộc vào quy mô vườn hoa phong lan.
Số lượng lan ít có thể sử dụng phương pháp nhúng chậu lan vào nước là phương pháp thích hợp nhất. Khi đó ta nhúng hẳn vào nước thì chậu và giá điều có thể ướt điều. Tuy nhiên phương pháp này cũng có mặt trái của nó là rất dễ lây lan bệnh từ cây này sang cây khác.
Nhà vườn cũng có thể dùng nhiều cách thức khác nhau để tưới lan.Nhưng khi tưới lan trực tiếp bằng vòi thì cần lưu ý không nên tưới quá mạnh vì có thể làm gãy cây hay thối những đọt non. Phương pháp tưới an toàn nhất là tưới bằng béc phun tự động cho các vườn lớn kinh doanh trên quy mô công nghiệp.
Vì vậy nếu trồng nhiều ta nên phân loại lan cùng chu kỳ sinh trưởng, phân biệt loại chậu/giá thể giống nhau để dễ chăm sóc. Nên chọn chậu cùng kích cỡ.
TƯỚI BẰNG NƯỚC GÌ?
Có nhiều loại nước như: nước sông, nước ao, nước mưa, nước máy và nước giếng.
Trong các loại đó nước mưa là tốt nhất, nó có nhiều chất tự nhiên, sau đó là nước sông và nước ao, nước này có độ phì lớn, nhất là nước ao màu hơi vàng lục. Nước giếng có nhiều chất khoáng nhưng không cần cho thực vật, dễ làm kềm hóa hoa.
Nước mưa rất tốt cho việc tưới lan. Thường thì tại các nhà vườn nước ngoài, họ dùng nhựa trong thông minh để làm mái. Còn nước mưa họ sẽ hứng lại vào bể chờ khoáng lắng đọng .
Thường thì tránh mưa đầu mùa và mưa cuối mùa. Nếu gặp mưa đầu, cuối mùa thì nên xịt, phun lại bằng nước trắng.
Nước mưa để sau 4-5 ngày, nước máy để 1-2 ngày trước khi tưới. Làm như vậy thì các chất ko tốt sẽ lắng đọng lại hoặc bốc hơi và độ Ph ổn định, nhiệt độ nước và đất gần giống nhau rồi tưới, cây dễ tiếp nhận..
Trước khi tưới có thể cho thêm vào nước mưa một ít vỏ quả, vỏ đậu ván tươi để làm nước chua hơn. Độ pH của nước cần ở mức từ 4.0 đến 7.0 và độ muối trong nước cần phải dưới 500 ppm.
THỜI GIAN TƯỚI TRONG NGÀY VÀ THỜI GIAN CỦA BÉP PHUN
Nếu nước quá lạnh, nhiệt độ dưới 10 độ tốt nhất là đun nước ấm lên gần với nhiệt độ của đất, giả sử 20 độ còn không thì ko tưới, đợi thời tiết tầm giữa trưa ấm lên là ta có thể tưới
Thời gian tưới phụ thuộc vào mùa, nhiệt độ, độ ẩm của tiểu khí hậu, mưa nắng… cũng như kinh nghiệm riêng của từng người.
Tuy nhiên theo hệ thống becphun thì với khoảng thời gian tưới là 20-25 phút/lần, có thể áp dụng cho nhiều loại lan. Với khoảng thời gian giữa hai lần tưới, nếu bề mặt chậu vẫn còn khô ráo và nhiệt độ ấm giúp cây mọc rễ tốt hơn.
Mùa hè và mùa thu nhiệt độ cao cần tưới vào buổi sáng và buổi chiều, tránh tưới nước vào buổi trưa hoặc sau buổi trưa, vì nhiệt độ không khí cao làm cho cây dễ bị thương. Mùa xuân hoặc giữa thu trời mát mẻ thường tưới vào buổi trưa; còn mùa rét thường tưới vào lúc 10h sáng.
Ẩm độ vào lúc sáng sớm và chiều tối tương đối cao, giữa trưa lại thấp. Vì vậy cần tạo ra ẩm độ tương đối trong ngày, nếu tưới hai lần trong ngày thì bạn nên tưới vào lúc 9 giờ sáng và một lần vào 3 giờ chiều. Nhưng nếu bạn tưới một lần thì nên tưới vào lúc 10 giờ sáng là tốt nhất.
SỐ LẦN TƯỚI
Không có quy tắc nào hoàn toàn chính xác vì nó còn phụ thuộc vào các yếu tố: Ẩm độ, giá thể, chu kỳ sinh trưởng, đk tiểu khí hậu, loại lan… Mà từ đó ta cân nhắc số lần tưới và lượng nước tưới trong ngày.
Thường thì lan nên được tưới nhiều vào mùa nắng vì đây là mùa sinh trưởng của lan. Trừ những ngày mưa nhiều, còn lại ta phải tưới đều đặn trong những ngày nắng ráo. Mùa hè thời tiết nóng bốc hơi nhanh thường ta tưới 2 lần sáng tối.
Căn cứ vào tập tính và tình hình sinh trưởng của cây cảnh mà xác định lượng nước tưới. Cây trồng trong chậu trong kỳ sinh trưởng mạnh phải tưới nhiều nước, nhưng khi hoa nở lại tưới ít nước, nếu không sẽ làm hoa rụng.
Khi nhiệt độ thấp hoặc trời râm cũng nên tưới ít nước, vì lúc này cây bốc hơi chậm. Trời mưa mặc dù nước không thấm đến chậu vẫn không cần tưới vì cây có thể lấy nước trong không khí ẩm.
Nhưng mỗi loại lan một khác, mùa hè hoàng thảo tưới 2 lần, khi thắt ngọn thì giảm dần số lượng tưới cho đến khi lá rụng hết tức là hoàng thảo chính thức vào kỳ nghỉ thì ta ko tưới, ko bón nữa. Nếu thấy tóp thân thì phun ít sương ẩm 1 tuần 1 lần vào gốc, tránh phun vào giả hành.
Vanda tưới mỗi ngày 2-3 lượt, Cymbidium có thể tưới 2 ngày một lần, Cattleya và nhiều loại khác cần phải khô rễ rồi mới tưới….
LƯỢNG NƯỚC TƯỚI
Tuỳ độ giữ nước của giá thể mà ta cân đối lượng nước tưới. Chậu nhỏ cần tưới thường xuyên hơn là chậu lớn.
Thường thì khi tưới dung lượng nước tương đương với chậu cây, thí dụ chậu 1 gallon cần tưới 1 gallon nước. Tưới cho thật đẫm và thưa không nên tưới mỗi ngày một ít.
Tóm lại: điều mấu chốt của tưới nước là tưới vừa phải, ko quá nhiều, ko quá ít. Tưới quá nhiều đất bị nén chặt, không khí khó thông gây ra nhiều oxy làm ức chế hô hấp của rễ, khi thiếu oxy các loài vi khuẩn yếm khí hoạt động mạnh dễ làm cho bộ rễ bị thối. Nếu tưới nước không đủ cũng gây ra bệnh khô héo lá, thậm chí làm cho cây chết.
Biểu hiện thiếu nước của phong lan có thể nhận thấy rõ ở những giả hành nhăn nheo so với những loài đa thân, hay chùn lá đối với những loài đơn thân. Nếu không khí quá khô nên tưới lên lá xung quanh cây để làm giảm nhiệt độ, tăng độ ẩm và có thể rửa sạch bụi trên mặt lá, có lợi cho hô hấp, tăng khả năng quang hợp của cây.
Riêng khu vực thành phố Hồ Chí Minh: (mình ở ngoài bắc nên đã nhờ cô “Ha Vo” ở HCM thẩm định đoạn viết hướng dẫn cho khu vực HCM nên các bạn yên tâm) thì tùy điều kiện nơi trồng ta sẽ có những lần tưới nước khác nhau. Nếu ở sân thượng thì bạn nên tưới nước 2 lần/ ngày vào mùa mưa, ở đất thì 1 lần/ ngày từ tháng 5 đến tháng 11 ( dương lịch). Từ tháng 11 đến tháng 4 thì đây là thời kỳ bước vào mùa nắng, ẩm độ không khí thấp nên ta tăng số lần tưới lên 3 lần/ ngày ở trên cao và 2 lần/ ngày dưới đất.
Từ tháng 2 đến tháng 5 là khoảng thời gian nghỉ của lan, vì thế lượng nước tưới vào mùa này cũng nên giảm xuống 1 lần/ ngày. Vì vào thời kỳ này các giả hành nhăn nheo do thiếu nước, một số loài sẽ rụng lá trơ trụi, nhưng bạn đừng quá lo lắng vì lan sẽ ra hoa cũng như tươi tốt vào mùa mưa đến. Bạn cũng có thể tưới sân thượng hay nền đất sẽ hiệu quả hơn cho sự phát triển của lan.
Tổng Quan Về Lan Hồ Điệp
Ngày đăng: 25/10/2014, 20:00
TỔNG QUAN VỀ LAN HỒ ĐIỆP I. NGUỒN GỐC VÀ PHÂN BỐ Lan Hồ Điệp có tên khoa học là Phalaenopsis sp, là loại lan có hoa lớn, đẹp, bền. Lan Hồ Điệp có màu sắc phong phú, không thua kém giống lan nào khác từ trắng, hồng, đỏ, vàng, tím đến các loại lan Hồ Điệp có sọc nằm ngang hoặc thẳng đứng hoặc có đốm to hay nhỏ. GiốngPhalaenopsis có khoảng 70 loài trong đó có 44 chủng loại, mọc từ dãy Hymalaya đến châu Á có hơn 20 loài lan ưa nóngcó ở các nước Đông Nam Á như bán đảo Mã Lai, Indonesia, Philippine, đông ẤnĐộ, (Nguyễn Công Nghiệp, 2004). Lan Hồ Điệp được khám phá vào năm 750, đầu tiên được ông Rumphius xác định dưới tên là Angraecum album. Đến năm 1753, Linne đổi lại là Epidenndrum amabilis vào năm 1825, Blume một nhà thực vật Hà Lan định danh một lần nữa là Phalaenopsis amabilis Bl và tên đó được dùng cho đến ngày nay. Lan Hồ Điệp sống ở độ cao 200- 400 m (William và kramer, 1983) nên vừa chịu khí hậu nóng ẩm vừa chịu khí hậu mát, nhiệt độ trung bình từ 20 0 – 30 0 C, trong đó khí hậu lý tưởng cho việc nuôi trồng loại lan này là 22 0 C – 27 0 C Việt Nam có khoảng 5- 6 giống nguyên chủng, gồm Phalaenopsisi gibbosa Sweet, phalaenopsis manniiRchob.f, Phalaenopsis braceana(Hook.f) christenson, phalaenopsis fuscataRchob.f, Phalaenopsis lobbii (Rchob.f.). Hầu hết có hoa nhỏ nhưng màu sắc sặc sỡ, hương thơm độc đáo. II. PHÂN LOẠI Ngành: Magnoliophyta (thực vật hạt kín) Lớp: Monocotyledoneae (lớp một lá mầm liliopsida) Bộ: Orchidaceae Họ: Orchidaceae Giống: Phalaenopsis Loài: Phalaenops is spp Tên khoa học: Phalaenopsis wedding promenade III. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI 1. Cơ quan sinh dưỡng a. Rễ Hệ rễ của lan Hồ Điệp không phân chia thành rễ chính, rễ phụ, rễ nhánh, lông hút rõ ràng. Hệ rễ của lan Hồ Điệp thường có dạng hình tròn, to, mập, có nhánh hoặc không phân nhánh. Rễ thường có màu trắng, đầu rễ có màu xanh, màu vàng trắng hoặc màu đỏ tối. Rễ của lan Hồ Điệp thường mọc tràn ra ngoài chậu, buông lơ lửng ra không khí, có lợi cho việc hút O 2 và nước. Có những nghiên cứu cho thấy rễ lan Hồ Điệp cũng như phong lan có khả năng quang hợp. Rễ của lan Hồ Điệp cũng như một số loài lan khác có nấm cộng sinh. Do hạt của hoa lan nói chung đều không có nội nhũ, không được cung cấp đủ dinh dưỡng khi nảy mầm, trong điều kiện nảy mần tự nhiên, cần dựa vào các nấm cộng sinh để hút chất dinh dưỡng. Trong quá trình sinh trưởng của cây, các loài nấm này sống cộng sinh tại rễ của cây lan để hỗ trợ lẫn nhau, vì thế rễ của cây lan còn được gọi là rễ nấm. Nên việc tưới và bón phân cho cây lan Hồ Điệp cần cẩn thận chính là vì trên rễ cây có nấm cộng sinh. b. Thân Lan Hồ Điệp thuộc loại lan đơn thân, tức là thân của chúng rất ngắn không hề có giả hành, cũng không có thời kỳ ngủ nghỉ rõ rệt. Lan đơn thân sinh trưởng rất chậm chạp, thân chính của nó trong môi trường thuận lợi hàng năm lại mọc ra các lá mới, chúng mọc theo hướng cao hơn theo phương thẳng đứng còn cành hoa thì mọc ở rìa thân hoặc nảy ra từ nách lá, lá mọc xếp thành hai hàng, xen kẽ nhau. Theo sự sinh trưởng của cây, các lá già ở dưới gốc dần dần già héo và rụng đi, đến khi có chồi nách mọc ra, nhưng thường không mọc dài ra được. Vì cây lan thường rất khó ra chồi nhánh nên không dùng phương pháp tách cây để nhân giống. Thân của lan Hồ Điệp, ngoài tác dụng giữ cho cây thẳng đứng, còn có chức năng tích trữ chất dinh dưỡng và nước cho cây. c. Lá Lá của lan Hồ Điệp to dày, đầy dặn, lá mọc đối xứng, ôm lấy thân cây. Số lá trên thân cây thường không nhiều, thông thường 1 cây lan trưởng thành có từ 4 lá trở lên. Trong nách lá có 2 chồi phụ, chồi phụ trên to hơn là chồi sơ cấp, bên dưới là chồi dinh dưỡng sơ cấp. Các chồi sơ cấp này sinh trưởng đến một mức độ nào đó thì bắt đầu đi vào giai đoạn ngủ nghỉ. Màu sắc của lá gồm 3 loại: lá màu xanh, mặt trên lá và mặt dưới lá màu đỏ, mặt trên lá đốm và mặt dưới lá màu đỏ. Căn cứ vào màu sắc lá có thể phân biệt được màu sắc hoa của chính nó, lá màu xanh thường ra hoa màu trắng hoặc hoa nhạt màu, còn các lá màu khác thường cho hoa màu đỏ. Lan Hồ Điệp để thích nghi với điều kiện sinh thái nguyên sinh, thông thường bề mặt trên của lá không có khí khổng, chỉ có mặt dưới của lá mới có khí khổng. Lan Hồ Điệp là loại thực vật CAM, giống như các thực vật CAM khác nên khí khổng mở ra vào ban đêm để thu nhận CO 2 để tạo ra chất dự trữ trong cơ thể, vào ban ngày CO 2 được sử dụng cho quá trình quang hợp. Ưu điểm của loại thực vật này là khí khổng không mở vào ban ngày nên cây không bị mất nước do quá trình thoát hơi nước. Điều kiện này đối với cây không được cung cấp nước thường xuyên là rất có lợi. Khi cây có đủ nước thì khí khổng cũng mở ra vào ban ngày để hút khí CO 2 tiến hành quang hợp bình thường. Nếu gặp phải điều kiện khô hạn nghiêm trọng thì khí khổng sẽ đóng lại, quá trình quang hợp diễn ra chỉ vửa đủ cho lượng CO 2 tạo ra trong quá trình hô hấp. Đây chính là nguyên nhân khiến cho cây lan Hồ Điệp mặc dù không có giả hành nhưng lại có khả năng chịu hạn tốt. 2. Cơ quan sinh sản a. Hoa Cành hoa của lan Hồ Điệp mọc ra từ nách lá, thông thường đếm theo thứ tự từ trên xuống thì cành hoa bắt đầu mọc ra từ lá thứ 3 hoặc thứ 4. Các cành hoa có thể phân nhánh hoặc không phân nhánh. Hoa lan to thường ít phân nhánh còn lan hoa nhỏ phân nhánh rất rõ thậm chí một số giống hoa lan nhỏ có thể nở đến 200 bông hoa. Cành hoa khi chưa phân hóa các đốt hoa thường ở dạng tiền chồi nách hoặc tiền chồi hoa, ở nhiệt độ dưới 15 0 C và bị bấm ngọn có nảy thành chồi hoa, nhưng nếu nhiệt độ cao quá 28 0 C thì chỉ có thể nảy thành chồi nách. Đa số các giống hoa đơn cây chỉ ra một cành hoa, cò một số giống khác hoặc trong điều kiện tốt cho chồi hoa phân hóa có thể mọc ra 2 hoặc 3 cành hoa. Nói chung, hoa lan Hồ Điệp đơn cây nếu phân hóa số cành hoa càng nhiều hoặc cành nhánh càng nhiều thì hoa nhỏ do bị hạn chế dinh dưỡng. Để trồng được lan có bông hoa to đẹp, cần phải khống chế số bông trên một cành, hoặc cắt bớt đi một số cành nhánh. Để đánh giá và thưởng thức hoa, người ta thường dùng 2 khái niệm “hoa đều đặn” hoặc “cực kỳ đều đặn”. Hoa đều đặn là chỉ cánh hoa đều to rộng, giữa các cánh hoa không có khe hở rất nhỏ, cánh môi trải xuống tạo dáng hình elíp, tất cả bông hoa tạo nên dáng hình tròn, còn loại “cực kỳ đều đặn” là chỉ hoa có hình dáng rất tròn, cánh hoa chồng khít lên nhau, không có khe hở hoặc khe hở khá lớn là “hoa không đều đặn”. b. Quả và hạt Hoa lan Hồ Điệp chỉ tạo quả qua thụ phấn nhân tạo hoặc thụ phấn nhờ côn trùng. Vỏ quả có hình que, phát triển chậm thường qua 4 tháng mới chín và tách vỏ. Số lượng hạt trong một quả khác nhau do sự khác nhau về bố mẹ đem thụ phấn. Những hạt của chúng thường rất nhỏ, có dạng bột, không có phôi nhũ, trong điều kiện tự nhiên rất khó tự nảy mầm thành cây con, thường phải gieo hạt trong môi trường vô trùng thích hợp mới có thể thu được cây con. IV. YÊU CẦU VỀ HỆ SINH THÁI. Là loại lan phân bổ chủ yếu ở vùng nhiệt đới, Hồ Điệp thích nghi với điều kiện nóng ẩm. 1. Nhiệt độ Lan Hồ Điệp thích nghi nhiệt độ dao động từ 27 0 C đến 29 0 C (Lopez vàRunkle, 2005). Tuy nhiên, trong điều kiện khó khăn lan Hồ Điệp có thể chịu được nhiệt độ từ 32 0 C đến 35 0 C (Lopez và Runkle, 2005). Để bắt đầu phát triển, lanHồ Điệp phải có một thời kỳ nhiệt độ vừa phải dưới 26 0 C trong 3-5 tuần (Texas A& M Cục trồng trọt, 2007). Sau khi cụm hoa phát triển cho đến nở nụ đầu tiên phụthuộc vào nhiệt độ trung bình hàng ngày, từ 14 0 C đến 26 0 C Lopez và Runkle, 2005). Vì vậy, nếu nhiệt độ thấp được tăng lên đến 26 0 C, các hoa bắt đầu nở sớm hơn. Tuy nhiên, nếu nhiệt độ quá cao sẽ ức chế sự ra hoa rõ ràng sự phát triển và nở hoa của lan Hồ Điệp phụ thuộc nhiều vào khoảng nhiệt độ nhất định nhưng nó cũng phụ thuộc vào cường độ ánh sáng 2. Ánh sáng Cường độ ánh sáng vừa phải và thoáng mát là lý tưởng cho lan Hồ Điệp phát triển. Tuy nhiên, nếu để trong bóng tối dài, lan Hồ Điệp sẽ bắt đầu mất màu lá(Wang, 2005). Để có hoa lan Hồ Điệp đẹp, sặc sở, khitrồng thương mại giai đoạnđầu có thể để trong bóng tối sau đó chuyển chúng raánh sáng(Wang, 2005). Nói chung, lan Hồ Điệp nhạy cảm với cường độ ánh sáng cao. Vì vậy, trong quá trình sản xuất không nên để lan tiếp xúc với cường độ ánh sángvà nhiệt độ cao. Bóng mát là điều kiện cần thiết nên trồng lan Hồ Điệp trong nhà có máiche (TAMU Cục trồng trọt, 2007). 3. Ẩm độ Ẩm độ rất cần thiết trong quá trình phát triển của lan Hồ Điệp (TAMUCục trồng trọt, 2007). Lan Hồ Điệp phát triển tốt trongkhoảng ẩmđộ 50-85% (Philippines D của A, 1999). 4 Gió Đối với Hồ Điệp, sự thông gió tối cần thiết. Độ thông gió càng nhiều cây càng ít bệnh. Tốc độ gió khoảng 10- 15 km/ giờ là tốt nhất (Jabu Reza, 2004). 5. Dinh dưỡng Hồ Điệp cần được cung cấp dinh dưỡng quanh năm vì bản thân cây Hồ Điệp không dự trữ được chất dinh dưỡng. Lan Hồ Điệp vừa chịu được khí hậu nóng ẩm lại vừa chịu được khí hậu mát nên Việt Nam được xem là địa điểm lý tưởng để nuôi trồng Hồ Điệp. Khi gặp điều kiện thuận lợi và chăm sóc tốt cây sẽ có hoa quanh năm (Jabu Reza, 2004). V. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ LAN HỒ ĐIỆP 1. Trên thế giới. Hầu hết các cây Hồ điệp thương mại được tạo ra từ hạt và là dị hợp tử. Tuy nhiên, khi nhân giống bằng hạt, cây con thu được sẽ không đồng nhất về mặt di truyền, nhất là sự phân ly tính trạng màu sắc hoa. Đã có nhiều phương pháp vi nhân giống lan hồ điệp như nuôi cấy cuống hoa với chồi nách, mô phân sinh, đỉnh chồi của chồi cuống hoa, đốt cuống hoa, đoạn cắt lá và chóp rễ. Tuy nhiên các phương pháp này chưa ứng dụng rộng rãi trong sản xuất thương mại vì chúng khác nhau về tỷ lệ sống sót, sự hình thành thể giống protocorm (PLB) và khả năng tái sinh cây con. Năm 1949, ông Rotor là người đầu tiên nhân giống lan Hồ Điệp bằng cách sử dụng cành phát hoa. Và được coi là phương pháp chính để nhân giống vô tính lan hồ điệp. Phương pháp này vẫn tồn tại một tỷ lệ cao các chồi duy trì trạng thái ngủ hoặc có thể phát triển thành cuống hoa hay chồi sinh dưỡng. Tanaka và CS (1976) đã sử dụng đỉnh rễ của cây lai phalaenopsis tạo protocorm. Ông là người đầu tiên nghiên cứu tập trung trên việc tối ưu hóa quy trình tạo chồi dinh dưỡng và nuôi lá ở nhiều yếu tố như protocorm, ánh sáng, nhiệt độ. Tuy nhiên, hiệu suất vẫn chưa cao đồng thời không ứng dụng được trên nhiều giống. Các thí nghiệm của Tanaka và Sakanishi (1977) cho thấy chồi ở các phần phía trên có xu thế duy trì trạng thái ngủ bất chấp ảnh hưởng của nhiệt độ. Các chồi nẩy mầm đặt ở 20 0 C hoặc 25 0 C sẽ tăng trưởng sinh sản (trừ một số chồi ở phần gốc) và ở 28 0 C các chồi đều tăng trưởng sinh dưỡng. Chồi nuôi cấy đang ở trạng thái ngủ sẽ được kích thích nẩy mầm nếu bổ sung BA vào môi trường. Năm 1991, Sajise và Sagawa đã đưa ra báo cáo đầu tiên về sự hình thành mô sẹo tạo phôi (embryogenic) và Tokuhara và Mii (2000) đã thực hiện cảm ứng thành công mô sẹo tạo phôi từ các mẫu cấy đỉnh chồi trên cuống hoa lan hồ điệp trên môi trường NDM (New Dogashima Medium) và cấy chuyền thành công mô sẹo sang dạng huyền phù trong môi trường NDM lỏng. Young, Murthy và Yoeup (2000) đã thành công trong việc sử dụng bioreactor để nuôi cấy PLB từ các đoạn cắt lá, sau 8 tuần nuôi cấy, họ đã thu được khoảng 18.000 PLB từ khoảng 1.000 PLB ban đầu trong 2 lít môi trường Hyponex. Các PLB này được chuyển sang môi trường Hyponex rắn để tạo cây con. Năm 2002, Park So Young và cs, khảo sát tối ưu hóa quá trình tạo protocorm từ lá, đưa ra quá trình hoàn chỉnh và kiểm chứng trên nhiều giống lan Hồ Điệp khác nhau. Theo nhiều tác giả khi tái sinh thành cây con từ protocorm chỉ cần sử dụng các môi trường khoáng có bổ sung nước dừa, khoai tây…mà không sử dụng bất kỳchất điều hòa tăng trưởng nào. Tanaka và Sakanishi (1985) và Tanaka (1987) đã sử dụng môi trường Knudson C cải tiến, còn Haas-von Schmude (1983,1985) sử dụng môi trường MS trong việc tái sinh cây con từ protocorm. Griesbach (1983)sử dụng môi trường Murashige và Skoog cho việc tái sinh cây con từ protocormtrong khi Lin (1986) sử dụng môi trường Knudson C cải tiến có bổ sung BA (1mg/l) để chuyển protocorm thành cây con. Hiện đã có hơn 200 công trình quốc tế thực hiện trên lan Hồ Điệp ở rất nhiều nội dung khác nhau từ sinh lý, sinh hóa, sinh học phân tử. Phần lớn các công trình nghiên cứu có nguồn gốc từ Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, vốn là những quốc gia gắn liền với xuất xứ lan Hồ Điệp (Hsu, 2006) Những hướng nghiên cứu được quan tâm hơn trong thời gian gần đây là xây dựng các qui trình chuyển gen, thiết kế các hệ thống nhân giống có qui mô lớn. Các nghiên cứu về chuyển gen cho phép đưa các tính trạng đặc biệt vào lan Hồ Điệp như khả năng tổng hợp sRNA kháng virus gây cháy lá, khả năng tổng hợp chất cay trong mù tạt để kháng bệnh (theo Rimaldi Sjahril, 2006). Có thể trong tương lai, thế hệ lan Hồ Điệp mang gen kháng acetylene có hoa lâu tàn sẽ được sản xuất và bán rộng rãi trên thị trường (theo Chai và Senthil, 2002). Tuy vậy, lan Hồ Điệp cũng như các cây trong họ hoa lan thường khó chuyển gen hơn các loại cây trồng khác do có đặc điểm: phát triển rất chậm, khó thao tác trong nuôi cấy mô, chưa có quy trình tái sinh từ các dòng tế bào đã biệt hóa, ít nhạy cảm với các loại kháng sinh chọn lọc, tiết ra môi trường một lượng lớn các hợp chất phenol gây độc cho tế bào, cấu trúc đa tế bào của vùng mô phân sinh làm cây chuyển gen dễ bị khảm. 2. Ở Việt Nam Bước đầu tìm hiểu về sự nuôi cấy in vitro lan Hồ Điệp (Phalaenopsis sp),Võ Thị Bạch Mai 1996 và Lê Văn Hướng cho rằng dưới tác động của auxin vàcytokinin được bổ sung riêng lẻ hay kết hợp vào môi trường MS cải tiến. Khi có bổ sung 5 ppm BA và 1ppm 2,4 D, mô cấy được kích thích tạo ra tiền củ. Trong môi trường MS bổ sung 2 ppm BA, mô cấy sẽ phát triển thành cây hoàn chỉnh. Khi “nghiên cứu xây dựng quy trình nhân giống và nuôi trồng lan Phalaenopsis ” Nguyễn Quang Thạch và cs (2003), đã sử dụng vật liệu nuôi cấy mô khởi đầu bằng lá non, mắt ngủ trên phát hoa và đỉnh phát hoa. Liêu Hồng Phú 2005 nghiên cứu tạo phôi và hạt nhân tạo lan Hồ Điệp được thực hiện tại Bộ Môn Công Nghệ Sinh Học, Đại Học Nông Lâm Tp.Hồ Chí Minh nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của các chất kích thích tố sinh trưởng và các loại môi trường đến khả năng tạo mô sẹo, phát sinh phôi, tái sinh chồi và tạo hạt nhân tạo lan Hồ Điệp. Theo Trần Thị Dung, Trịnh Pari và Liêu Hồng Phú (2005) Khi nuôi cấy phát sinh mô sẹo từ protocorm trên môi trường VW (Vacin &Went) có bổ sung 0,01 mg/ l BA + 200 mg/ l nước dừa + 40 g/ l đường cho khả năng tạo mô sẹo cao nhất. Đối với việc tạo phôi, môi trường thích hợp nhất là VW có bổ sung 2mg/ lTDZ sau đó cấy chuyền sang môi trường ½ VW. Môi trường tốt nhất cho việc tái sinh lan Hồ Điệp từ phôi là môi trường VW + 30 g/ l khoai tây + 1g / l than hoạt tính. Theo Cung Hoàng Phi Phượng và cs (2007) sử dụng hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời sẽ cung cấp chất dinh dưỡng và không khí cho các mô sẹomột cách chủ động. Cũng nhờ đó hệ số nhân giống cây cao gấp 5-6 lần so với cách nhân giống lan Hồ Điệp bằng phương pháp sinh sản vô tính. Trong môi trường nuôi cấy ngập chìm tạm thời, các mô phát triển nhanh và nhân chồi liên tục. Trung bình, từ một mô sẹo sau 2-3 tháng có thể cho 20- 25 chồi con. Các chồi này có lálớn và ra rễ rất nhanh, chồi phát triển thành cây con chỉ sau 2- 3 tháng. Khi đưa ratrồng ở môi trường tự nhiên, 100% cây con được nuôi cấy bằng kỹ thuật nói trênđều sống và phát triển tốt. Theo Dương Tấn Nhựt và cs (2007) sử dụng vật liệu nuôi cấy khởi đầu là protocorm có màu xanh, đường kính từ 1- 1.5 mm cấy chuyền 2-3 tháng 1lần, môi trường MS cơ bản bổ sung 2mg/ l BA, 1mg / l NAA và 20% nước dừa và hệ thống nuôi cấy bioreactor rất thích hợp để nhân nhanh protocorm của lan Hồ Điệp. Monosaccharide (đường mía) không thích hợp cho nuôi cấy phôi vô tính cây lan Hồ Điệp, đặc biệt D- fructose có tác động rất xấu đến mẫu cấy (gây chết100% mẫu). Các disaccharide thích hợp hơn cho nuôi cấy phát sinh phôi từ mẫu đoạn mắt ngủ là phương pháp nhanh chóng và luân phiên để nhân giống cây trồng. Nhờ cấy mô sẹo. Môi trường nuôi cấy bổ sung 20g / l sucrose sẽ cho hiệu quả phát sinh phôi cao nhất (Dương Tấn Nhựt cà cs, 2007) Theo Trần Thị Kim Liên (2008) khi nghiên cứu khả năng phát sinh chồi từmắt ngủ trên phát hoa lan Hồ Điệp cho thấy: việc nuôi cấy mô từ các chấn thương,sẽ đạt được nhiều cây con Hồ Điệp hơn so với các khúc mắc bình thường chỉ chomột cây con duy nhất. Môi trường thích hợp để phát sinh chồi là môi trường MScó bổ sung 1 mg/ l BA và 2 mg/ l NAA. Hoàng Thị Hiền, 2009. Đề tài nghiên cứu “Xác định nồng độ nước javel cho quá trình khử mẫu phát hoa lan hồ điệp. Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng BAP, TDZ, NAA đến quá trình sinh trưởng, phát triển của lan hồ điệp lai (Phalaenopsis sp.) in vitro” được tiến hành tại phòng di truyền và chọn giống – Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam. chúng tôi học Đặng Thị Ánh Tuyết, 2009, đề tài nghiên cứu “Ứng dụng phương pháp nuôi cấy lỏng tĩnh để nhân nhanh giống lan Hồ điệp (Phalaenopsis sp)”. Tại Trung tâm Ưng dụng và Chuyển giao công nghệ Phú Yên Hồ Phan Thiết Toàn, 2011, đề tài nghiên cứu “Khảo sát một số yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của lan Hồ Điệp(Phalae nops is) in vitro.” Tại t phòng thí nghiệm nuôi cấy mô của Khoa – Khoa họcnông nghiệp – CNSH. Trường Cao Đẳng Nguyễn Tất Thành Quận 4 TP. Hồ ChíMinh. VI. GIÁ TRỊ THƯƠNG MẠI VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN LAN HỒ ĐIỆP 1. Trên thế giới Hoa lan không chỉ mang vẻ đẹp đài các, sang trọng mà còn ấm áp, gần gũi và chất chứa những giá trị tiềm ẩn, mới lạ,hấp dẫn. Đặc biệt, lan Hồ Điệp được ưa thích về màu sắc, kiểu dáng trang nhãnhưng cũng không kém phần kiêu sa và được mệnh danh là ” nữ hoàng ” của cácloài hoa lan. Chính vì vậy, việc trồng lan Hồ Điệp không chỉ dừng lại ở qui mô gia đình mà đã nhanh chóng được mở rộng và trở thành lãnh vực quan trọng trongnông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều nước trên thế giới như Đài Loan, Nhật Bản, Hà Lan, Mỹ. Trong những năm gần đây, lan Hồ Điệp trở thành lan trồng chậu phổ biến vàđược ưa chuộng nhất. Tổng sản lượng chiếm trên 75% trong các loại lan được trồng trên thế giới (theo Griesbach, 2002). Tại Hà Lan, Hồ Điệp cũng là loại lan được trồng trong chậu phổ biến và có giá trị cao nhất trong ngành trồng hoa. Tại Mỹ, Hồ Điệp là hoa trồng chậu trang trí và quà tặng cao cấp. Lan Hồ Điệp được trồng mọi nơi trên thế giới, hầu hết là ở Đức, Nhật Bản,Đài Loan, Thái Lan, Hoa Kỳ vv. Lợi nhuận đem về từ việc xuất khẩu cây con hay cây có hoa đều lớn. 2. Ở Việt Nam Việt Nam có khí hậu thích hợp và có nhiều nguyên liệu làm giá thể tốt cho lan Hồ Điệp sinh trưởng và phát triển, nhiều tiềm năng trở thành một nước sản xuất hoa lan Hồ Điệp lớn trong khu vực. Theo số liệu thốngkê tính đến năm 2004, diện tích trồng hoa của cả nước xấp xỉ 9.000 ha (NguyễnXuân Linh và Nguyễn Thị Kim Lý, 2005). Nếu được đầu tư khai thác hợp lý mang lại lợi nhuận lớn cho người trồng hoa nói riêng và sự phát triển nông nghiệp nói chung. Năm 2009, quy mô diện tích sản xuất hoa lan Hồ Điệp ở miền Bắc đạt khoảng 4.400 m2, cung cấp cho thị trường khoảng 131.000 cây, đáp ứng được 21% nhu cầu của thị trường. Hiệu quả kinh tế đem lại từ sản xuất lan Hồ Điệp là rất cao. Qua tính toán cho thấy, lãi thu được từ sản xuất lan Hồ Điệp đạt trung bình từ 280 – 540 triệu đồng/1000m2 như mô hình tại Viện Nghiên cứu rau quả. Đặc biệt một số mô hình cho lãi từ 700 triệu – 1 tỷ đồng/1000m2 như công ty Cửu Long, Trung tâm ứng dụng công nghệ cao Quảng Ninh… Lan Hồ điệp, là một loài lan có độ bền bông cao trong điều kiện thích hợp, cũng là một loài cây rất thích hợp để trồng trong nhà, dễ ra hoa. Hơn nữa, trong vài thập kỉ gần đây nền công nghệ trồng lan phát tiển giúp người trồng đã giảm giá thành đáng kể đối với loại lan này nên giá cả phù hợp với những người mê hoa hay người mới tập trồng, Hồ Điệp rất được ưa chuộng và được trồng ở nhiều nơi. . TỔNG QUAN VỀ LAN HỒ ĐIỆP I. NGUỒN GỐC VÀ PHÂN BỐ Lan Hồ Điệp có tên khoa học là Phalaenopsis sp, là loại lan có hoa lớn, đẹp, bền. Lan Hồ Điệp có màu sắc phong phú, không thua kém giống lan. nuôi trồng Hồ Điệp. Khi gặp điều kiện thuận lợi và chăm sóc tốt cây sẽ có hoa quanh năm (Jabu Reza, 2004). V. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ LAN HỒ ĐIỆP 1. Trên thế giới. Hầu hết các cây Hồ điệp thương. cây lan để hỗ trợ lẫn nhau, vì thế rễ của cây lan còn được gọi là rễ nấm. Nên việc tưới và bón phân cho cây lan Hồ Điệp cần cẩn thận chính là vì trên rễ cây có nấm cộng sinh. b. Thân Lan Hồ Điệp
Tổng Quan Về Phân Bón
Tổng quan về phân bón
Phân bón: là sản phẩm có chức năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng hoặc có tác dụng cải tạo đất để tăng năng suất, chất lượng cây trồng.
I. Các khái niệm
Phân bón: là sản phẩm có chức năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng hoặc có tác dụng cải tạo đất để tăng năng suất, chất lượng cây trồng.
Nguyên tố dinh dưỡng trong phân bón: là các nguyên tố hóa học cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng, bao gồm:
– Nguyên tố dinh dưỡng đa lượng là các nguyên tố: đạm (N), lân (P), kali (K) ở dạng cây trồng có thể hấp thu được.
– Nguyên tố dinh dưỡng trung lượng là các nguyên tố: canxi (Ca), magie (Mg), lưu huỳnh (S), silic (Si) ở dạng cây trồng có thể hấp thu được.
– Nguyên tố dinh dưỡng vi lượng là các nguyên tố: bo (B), đồng (Cu), sắt (Fe), mangan (Mn), molipđen (Mo), kẽm (Zn) ở dạng cây trồng có thể hấp thu được.
Yếu tố hạn chế trong phân bón: là những yếu tố có nguy cơ gây độc hại, ảnh hưởng tới an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường (không được bao gồm hoặc có ở mức độ cho phép theo quy định), gồm:
– Các nguyên tố arsen (As), cadimi (Cd), chì (Pb) và thủy ngân (Hg)
– Vi khuẩn E. coli, Salmonella và các vi sinh vật gây hại cây trồng, gây bệnh cho người, động vật được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xác định.
Chất lượng phân bón được kiểm soát bởi các thông số kỹ thuật về đặc tính, thành phần và hàm lượng các chất dinh dưỡng được quy định trong quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn công bố áp dụng.
Phân bón không bảo đảm chất lượng là phân bón có hàm lượng định lượng các chất dinh dưỡng hoặc có thành phần không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng hoặc quy chuẩn kỹ thuật tương ứng hoặc quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
II. Phân loại phân bón
2.1. Theo nguồn gốc nguyên liệu và quá trình sản xuất
– Phân bón hóa học (còn gọi là phân bón vô cơ): Là các loại phân bón được sản xuất từ nguyên liệu chính là các chất vô cơ hoặc hữu cơ tổng hợp, được xử lý qua quá trình hóa học hoặc chế biến khoáng sản.
– Phân bón hữu cơ: Là các loại phân bón được sản xuất từ nguyên liệu chính là các chất hữu cơ tự nhiên (không bao gồm các chất hữu cơ tổng hợp), được xử lý thông qua quá trình vật lý (làm khô, nghiền, sàng, phối trộn, làm ẩm) hoặc sinh học (ủ, lên men, chiết).
– Phân bón sinh học: Là các loại phân bón được sản xuất thông qua quá trình sinh học hoặc có nguồn gốc tự nhiên, trong thành phần có chứa một hoặc nhiều chất sinh học như axít humic, axít fulvic, axít amin, vitamin hoặc các chất sinh học khác.
2.2. Theo thành phần hoặc chức năng của chất chính
2.2.1. Đối với phân vô cơ
– Phân bón đa lượng: Là phân bón trong thành phần chứa ít nhất 01 nguyên tố dinh dưỡng đa lượng, bao gồm phân đơn, phân phức hợp, phân hỗn hợp, phân khoáng hữu cơ, phân khoáng sinh học.
– Phân bón trung lượng: Là phân bón hóa học trong thành phần chất chính chứa ít nhất 01 nguyên tố dinh dưỡng trung lượng, không bao gồm vôi, thạch cao, đá dolomite ở dạng khai thác tự nhiên chưa qua quá trình xử lý, sản xuất thành phân bón.
– Phân bón vi lượng: Là phân bón trong thành phần chất chính chứa ít nhất 01 nguyên tố dinh dưỡng vi lượng.
– Phân bón đất hiểm: Là phân bón trong thành phần có chứa ít nhất một trong các nguyên tố: scandi (Sc), ytri (Y), ceri (Ce), prazeodim (Pr), neodim (Nd), prometi (Pm), samari (Sm), europi (Eu), gadolini (Gd), Tebi (Tb), diprozi (Dy), homi (Ho), eribi (Er), tuli (Tm), ytecbi (Yb), lutexi (Lu).
– Phân bón cải tạo đất vô cơ: Là phân bón có tác dụng cải thiện tính chất lý, hóa, sinh học của đất để tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng, phát triển, được sản xuất từ nguyên liệu chính là các chất vô cơ hoặc hữu cơ tổng hợp.
2.2.2. Đối với phân hữu cơ
– Phân bón hữu cơ: Là phân bón trong thành phần chất chính chỉ có chất hữu cơ và các chất dinh dưỡng có nguồn gốc từ nguyên liệu hữu cơ.
– Phân bón hữu cơ vi sinh: Là phân bón trong thành phần chất chính gồm có chất hữu cơ và ít nhất 01 loài vi sinh vật có ích.
– Phân bón hữu cơ sinh học: Là phân bón trong thành phần chất chính gồm có chất hữu cơ và ít nhất 01 chất sinh học (axít humic, axít fulvic, axít amin, vitamin,…).
– Phân bón hữu cơ khoáng: Là phân bón trong thành phần chất chính gồm có chất hữu cơ và ít nhất 01 nguyên tố dinh dưỡng đa lượng.
– Phân bón cải tạo đất hữu cơ: Là phân bón có tác dụng cải thiện tính chất lý, hóa, sinh học của đất để tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng, phát triển, được sản xuất từ nguyên liệu chính là các chất hữu cơ tự nhiên (không bao gồm các chất hữu cơ tổng hợp).
– Phân bón hữu cơ truyền thống: Là phân bón có nguồn gốc từ chất thải động vật, phụ phẩm cây trồng, các loại thực vật hoặc chất thải hữu cơ sinh hoạt khác được chế biến theo phương pháp ủ truyền thống.
2.2.3. Đối với phân sinh học
– Phân bón sinh học: Là loại phân bón được sản xuất thông qua quá trình sinh học hoặc có nguồn gốc tự nhiên, trong thành phần có chứa một hoặc nhiều chất sinh học như axít humic, axít fulvic, axít amin, vitamin hoặc các chất sinh học khác.
– Phân bón vi sinh vật: Là phân bón có chứa vi sinh vật có ích có khả năng tạo ra các chất dinh dưỡng hoặc chuyển hóa thành các chất dinh dưỡn
Giới Thiệu Tổng Quan Về Các Giống Lan Hồ Điệp Đẹp Ở Nước Ta
Sở hữu nét đẹp kiêu sa, quyến rũ độc nhất vô nhị, nên lan hồ điệp bao giờ cũng được người yêu hoa và thưởng hoa ưu ái hơn cả. Nhu cầu chơi hoa ở nước ta ngày càng tăng, tuy nhiêu đối với những người lần đầu tập chơi hoa thì rất khó khăn trong việc phân biệt các giống hoa lan cũng như việc chăm sóc làm sao cho nó tươi tốt và trổ hoa đẹp nhất.
Giới thiệu tổng quan về các giống lan hồ điệp đẹp ở nước ta
Trongthì giống lan này được yêu thích bởi khoác trên mình một vẻ đẹp tinh khôi, rực rỡ, chúng thường có cánh hoa màu trắng và môi màu vàng. Đặc biệt, giống hoa lan hồ điệp này cồn sinh trưởng phát triển khỏe và chịu nóng tốt, cộng thêm khả năng kháng sâu bệnh hại cao nên rất thích hợp trồng trong điều kiện khí hậu ở nước ta.
Thông thường cây sẽ có 4 – 6 lá thật, đối với lá dài 18 – 20cm và rộng 10 – 12cm. Phần ngồng hoa dài 59,6cm cùng đường kính hoa 8,8cm. Thêm vào đỏ tỷ lệ hoa nở rất cao, đạt lên đến 89,5%. Màu sắc hoa rất đẹp và tươi tắn. Độ bền hoa có thể kéo dài 72 – 78 ngày. Trong các giống lan hồ điệp thì LVR2 được người chăm sóc đánh giá rất cao và có triển vọng lớn cho sự phát triển mở rộng ở nước ta hiện nay.
Đây là màu tím mười giờ và có môi màu tím nhạt. Giống cây này sinh trưởng phát triển khỏe và có khả năng chống chịu tốt với sâu bệnh.
LVR4 là mộ trong các giống lan hồ điệp được yêu thích nhất ở nước ta hiện any. Thông thường cây sẽ có 4 – 6 lá thật, mỗi lá dài 18 – 20cm và rộng 10 – 12cm. Chúng có ngồng hoa dài 57,6cm cùng đường kính hoa 8,7cm. LVR4 có tỷ lệ hoa nở khá cao, đạt 88,5%. Sắc hoa đẹp và mạnh khỏe. Độ bền hoa cao, có thể lên đến 70 – 75 ngày. Đây là loại lan rất hợp thị hiếu người tiêu dùng.
Loại này này có nhiều hoa trên cành, màu tím, môi màu đỏ tím và hoa bền. Cây sinh trưởng, khả năng phát triển tốt trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ở nước ta, đặc biệt là khí hậu miền Bắc.
Chúng có 4 – 6 lá thật, mỗi lá dài 16 – 19cm và rộng 8 – 10cm. Trung bình ngồng hoa dài 38,5cm. Đường kính hoa 4,6cm cùng tỷ lệ hoa nở rất cao, lên đến 92,5%. Đây cũng được xem là một trong các giống hoa lan hồ điệp được người tiêu dùng ưa chuộng.
Lan hồ điệp Ban Mai Hồng là một trong các giống hoa lan hồ điệp đẹp cuối cùng mà Hoa Sài Gòn kể đến trong bài viết hôm nay. Hoa màu tím hồng, và môi màu tím hồng viền vàng. Loại cây này sinh trưởng và phát triển khỏe.
Khi trồng năm đầu thường có 5-7 lá, đến năm thứ hai thì sinh trưởng ổn định. Cây có khả năng chịu nóng khá nên rất thích hợp được trồng ở nước ta. Kháng sâu bệnh hại tốt, đặc biệt nhất là bệnh nguy hiểm, ví dụ như thối nhũn vi khuẩn và đốm lá. Về loại lan hồ điệp này, cây có 4 – 6 lá thật, mỗi lá dài 17 – 19cm và rộng lá 5 – 7cm. Có ngồng hoa dài trung bình 50cm, trung bình/cành là 6 hoa. Cùng tỷ lệ hoa nở năm đầu đạt 72,6%. Chất lượng hoa tốt. Độ bền đạt 75 – 80 ngày. Cũng giống như , lan hồ điệp trắng, sắc hoa này vô cùng mới lạ và được người dùng yêu thích đặc biệt.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Tổng Quan Về Nước Tưới Cho Lan trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!