Đề Xuất 3/2023 # Quy Trình Chăm Sóc Cây Sầu Riêng # Top 3 Like | Vitagrowthheight.com

Đề Xuất 3/2023 # Quy Trình Chăm Sóc Cây Sầu Riêng # Top 3 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Quy Trình Chăm Sóc Cây Sầu Riêng mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

I. Trồng cây chắn gió

Sầu riêng tuy là cây to, nhưng gỗ lại giòn dễ gãy, vì thế cần trồng những hàng cây cao lớn, chắc chắn, khó đỗ gãy xung quanh vườn sầu riêng, để tránh đổ cây gãy cành, rụng trái… đồng thời hàng cây chắn gió này còn giúp điều hòa nhiệt độ và ánh sáng trong khu vườn.

Cây trồng để chắn gió cần chọn những loại cây phát triển nhanh, mạnh, dẻo dai, rễ cọc ăn sâu, không hoặc ít bị những loại sâu bệnh thường gây hại nhiều cho cây sầu riêng. Theo kinh nghiệm của nhà vườn ở những tỉnh phía Nam thì có thể dùng một số loại cây như Mít, cóc, dừa, phi lao, bạch đàn, xoài, xà cừ…

II. Làm cỏ, xới xáo, trồng xen che phủ đất

Thường xuyên làm cỏ, vệ sinh vườn tược, xới xáo cho đất tơi xốp và sạch cỏ dại. Mùa khô nên tủ gốc bằng rơm rạ, cỏ khô, lá cây…để giữ ẩm.

Cây trồng xen phải trồng cách xa gốc cây sầu riêng ít nhất là 0,5 mét. Phải làm sạch cỏ xung quanh gốc gốc để hạn chế độ ẩm vùng xung quanh gốc để hạn chế bớt tác hại của nấm Phytophthor cho cây sầu riêng. Vào mùa khô dùng rơm rạ, cỏ khô…phủ xung quanh gốc một lớp dày khoảng 10-20cm (Cách gốc 20 cm để vùng gốc luôn khô ráo) để giữ ẩm cho cây. Vào mùa mưa gỡ bỏ lớp che phủ.

III. Bồi mô, bồi liếp, vun gốc

Đối với những vùng đất thấp phải dắp mô để trồng thì những năm đầu mỗi năm phải bồi thêm đất vào chân mô để mở rộng chân mô. Từ năm thứ 3 thứ 4 trở đi thì bồi đất lên mặt liếp mỗi năm một lần vào đầu mùa khô để nâng dần độ cao của liếp.

Đối với những vùng đất cao đào hốc và trồng trực tiếp trên mặt vườn thì hàng năm dùng đất tốt vun rải một lớp mỏng vào xung quanh gốc.

hàng năm, kết hợp với mỗi lần bón phân làm gốc cần xới nhẹ xung quanh gốc ( đường kính khoảng 1,2-1,5 mét) sâu 5 cm.

IV. Tưới nước

Mặc dù là cây sợ ngập úng, nhưng cây sầu riêng lại rất cần nước, đặc biệt là thời kỳ cây con và giai đoạn ra hoa kết trái. Mùa khô cần tưới nước thường xuyên để đảm bảo đủ ẩm cho cây. Vào giai đoạn cây đang ra hoa kết trái chỉ cần tưới đủ ẩm , tránh tưới quá nhiều dễ gây rụng hoa , rụng trái và sau này cơm trái có thể bị nhão.

Để hạn chế bốc hơi nước trong mùa khô nên dùng rơm rạ, cỏ khô tủ xung quanh gốc, nhưng đến mùa mưa thì phải gỡ bỏ sạch sẽ lớp che phủ này để gốc không bị ẩm ướt. Trong vườn cần có hệ thống thoát nước để kịp thời thoát nước mỗi khi có mưa, tránh vườn bị ngập úng, ẩm ướt, tạo điều kiện cho nấm bệnh gây thối rễ phát triển.

V. Bón phân

Lượng phân bón nhiều hay ít tùy thuộc vào tuổi cây đã lớn hay còn nhỏ, mức độ sinh trưởng của cây tốt hay xấu, đất đai màu mỡ hay cằn cỗi…

Lượng phân bón cho mỗi cây sầu riêng như sau:

Năm thứ nhất khoảng 0,2-0,3 kg Urea, 0,3 kg Super Lân và 0,1 kg Sulfat Kali. Còn ở năm thứ hai và thứ ba thì mỗi năm bón khoảng 0,7 kg Urea, 0,6 kg Super Lân và 0,2 kg Sulfat Kali

Cách bón và thời điểm bón phân: Chia ra làm 2 lần bón vào đầu mùa mưa và cuối mùa mưa. Ngoài ra, ở những năm đầu mỗi năm bón 10-15 kg phân hữu cơ cho một cây.

Khi cây đã bắt đầu cho trái mỗi năm bón cho mỗi cây khoảng 1 kg Urea, 1,5 kg Super Lân và 0,5 kg Sulfat Kali và 15-20 kg phân hoai mục. Số phân này được này được chia ra bón làm 3 lần như sau:

Lần 1: 1/3 Đạm, 1/2 Kali trước lúc cây ra hoa.

Lần 1: 1/3 Đạm, 1/2 Kali khi trái có đường kính 10-15 cm.

Lần 3: 1/3 Đạm, toàn bộ phân Lân và phân hữu cơ hoai mục.

Khi cây đã bước vào giai đoạn cho trái ổn định, có thể bón như sau:

Lần 1: Sau khi thu hoạch trái, tiến hành cắt tỉa cành và bón khoảng 20-30 kg phân hữu cơ cho một cây, 0,7 kg Urea, 1,1 kg Super Lân và 0,15 kg Sulfat Kali và 0,05 kg Sulfat Magie. Khi cây lớn có thể tăng lượng phân này lên gấp đôi.

Lần 2: Bón trước khi cây ra hoa 30-40 ngày, giai đoạn này cây cần nhiều Lân để xúc tiến quá trình phân hóa mầm hoa và ra hoa thuận lợi, vì thế cần tăng cường thêm phân Lân. Tỷ lệ pha trộn phân NPK lần này là 10:50 và 7. Liều lượng cụ thể của từng loại phân đơn để pha trộn như sau: cú 1,2 kg Ure thì trộn với 17 kg super Lân và 1,8 kg Sulfat Kali, và bón cho mỗi cây khoảng 2-3 kg hỗn hợp phân này.

Lần 3: Bón vào giai đoạn trái lớn cỡ trứng gà để nuôi trái. Lần bón này chú ý tăng cường thêm phân Đạm, Kali và bón thêm Magie. Tỷ lệ pha trộn các loại phân này với nhau là 12:12:17:2. Cụ thể là cứ 3,7 kg Ure + 11kg Super Lân + 5 kg Sulfat Kali + 0,3 kg Magie. Và bón cho mỗi gốc khoảng 2-3 kg hỗn hợp này.

Lần 4: Trước khi thu hoạch trái khoảng 1 tháng , bón cho mỗi gốc khoảng 2-3 kg phân NPK loại 16:16:8, kết hợp với 1-1,5 kg KNO3. không nên bón trễ hay sớm hơn vì sẽ làm cho trái sượng hoặc nhão.

Cách bón: Hai năm đầu pha phân loãng trong nước rồi tưới xung quanh gốc. Từ năm thứ 3 trở đi xới một lớp mỏng đất xung quanh gốc rồi rải phân sau đó phủ lớp đất hoặc rơm rạ, cỏ khô…lên trên, tưới nước cho phân tan và nằm xuống đất cung cấp dần cho cây. Đối với phân hữ cơ thì đào rãnh xung quanh gốc theo hình chiếu của tán cây, rãnh rộng 0,3 mét, sâu 0,3-0,4 mét rải phân xuống rồi lấp đất.

VI. Cắt tỉa tạo tán

Việc cắt tỉa tạo tán phải được làm sớm ngay từ khi cây còn nhỏ. Mỗi cây chỉ để một thân chính mọc thẳng, trên cây mang nhiều cành cấp 1 mọc ngang tạo với thân chính một góc 450-900 độ, chỉ chừa lại những cành khỏe, mọc đều cành nọ cách cành kia ít nhất 30 cm. Cắt bỏ những cành sườn nhỏ yếu, mọc quá gần nhau , những cành mọc thấp dưới 1 mét kể từ mặt đất. Tsaoj cho vườn cây luôn thông thoáng, giúp cho cây thụ phấn thuận lợi. Hàng năm sau khi thu hoạch, cần tỉa bỏ những cành nhỏ mọc đứng, cành bên trong tán, cành ốm yếu, cành biij sâu bệnh hại nặng, cành mọc quá gần mặt đất, cành bị chết khô, dập gãy…kết hợp với việc bón phân làm gốc cho cây.

VII. Tỉa hoa, tỉa bỏ bớt trái trên cây

Sầu riêng là cây cho rất nhiều hoa, số lượng hoa cao hơn rất nhiều lần so với số lượng trái cần có trên cây, nếu gặp điều kiện thuận lợi cho việc thụ phấn thụ tinh cho hoa thì cây sẽ cho khá nhiều trái, như vậy cây sẽ không đủ dinh dưỡng cung cấp nuôi hết số hoa số trái trên cây, nên cần phải tỉa bớt để tránh việc cạnh tranh dinh dưỡng làm rụng hoa hoặc hoa phát triển không đầy đủ, ảnh hưởng đến thụ phấn, thụ tinh, đậu trái. Khi đã đậu trái cũng cần tỉa bỏ những chỗ trái mọc dày, trái bị méo mó, trái bị sâu bệnh…

Cây sầu riêng thường ra 2-3 đợt trái trong năm, nhà vườn nên cân nhắc, tính toán sao cho việc tỉa bỏ đợt nào, giữ lại đợt nào để có lợi nhất. Sau khi đậu trái, mỗi cành cũng chỉ nên để lại 3-5 trái là vừa.

Tỉa làm 3 lần:

Lần 1: Vào tuần thứ 3-4 sau khi hoa nở, trước khi trái bước vào giai đoạn phát triển nhanh. Lần này cần tỉa bỏ những trái ở chỗ mọc dày đặc, những trái nhỏ, dị hình hoặc bị sâu bệnh trên chùm, mỗi chòm chỉ nên để lại một rái.

Lần 2: Vào tuần thứ 8 sau khi hoa nở. Tỉa bớt những trái phát triển không bình thường, nhỏ, không cân đối, méo mó để điều chỉnh lại cân bằng về mặt dinh dưỡng, giúp cho quá trình tạo cơm trái được thuận lợi.

Lần 3: Vào tuần thứ 10 sau khi hoa nở. Tỉa bỏ những trái có hình dạng không đặc trưng của gióng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phất triển của cơm, kích thước và hình dạng trái.

VIII. Thụ phấn bổ sung

Hoa sầu riêng là hoa lưỡng tính, thường nở vào khoảng 17-18 giờ . Ngay từ khi hoa hé nở cho đến sáng hôm sau núm nhụy cái đã sẵn sàng nhận hạt phấn của nhị đực để thụ tinh. Nhưng bao phấn của nhị đực lại chỉ bắt đầu nứt và tung phấn vào lúc 19-20 giờ cho đến khoảng 23 giờ đêm thì chấm dứt vì nhị đực bị rụng tự nhiên.

Vì vậy từ nửa đêm trở về sáng trên hoa chỉ còn lại nhụy cái, còn các phần tử khác của nhị đực , lá đài phụ, lá dài trong và các cánh hoa đã bị rụng từ nửa đêm. Vì thế vào buổi tối nếu thời tiết tốt, không có mưa gió và côn trùng hoạt động mạnh thì hoa sầu riêng sẽ thụ phấn dễ dàng, thuận lợi. Ngược lại, vào thời gian từ 19-23 giờ nếu gặp điều kiện bất lợi, núm nhụy cái không nhận được hạt phấn nào thì sau đó hoa sẽ tự rụng.

Như vậy hoa sầu riêng có khả năng tự thụ phấn để đậu trái , nhưng nếu gặp điều kiện bất lợi thì khả năng tự thụ phấn sẽ không cao, tỷ lệ đậu trái sẽ ít. Đặc biệt, trái tự thụ phấn thường nhỏ, hình dạng không cân đối so với những trái được thụ phấn chéo. Vì vậy, nếu có điều kiện nên giúp cây thụ phấn thêm bằng tay vào lúc 20-22 giờ đêm để quá trình thụ phấn được diễn ra đầy đủ trên đầu nhụy, nhằm tạo ra những trái sầu riêng đầy đặn không bị lép.

Thụ phấn bằng tay có thể tiến hành như sau: Vào buổi sáng cắt một số hoa của cây giống dùng làm bố, cắt lấy các chùm nhị được cho vào đĩa sứ hoặc thủy tinh trên phủ kín bằng vải màn rồi đặt vào nơi khô ráo, thoáng mát đến chiều là bao phấn nơ, tung phấn.

Đến tối gỡ bỏ cuống nhị và xác bao phấn gom phấm lại. Vào khoảng 20-22 giờ đêm dùng một cây bút lông (cây cọ) nhỏ chấm vào phấn rồi phết nhẹ vào đầu nhụy của hoa trên cây mẹ để truyền hạt phấn đến đầu nhụy giúp quá trình thụ tinh diễn ra dễ dàng.

Ngoài giúp cây thụ phấn bằng tay, có thể áp dụng biện pháp trồng xen các giống sầu riêng khác nhau trong cùng một vườn để trăng khả năng thụ phấn chéo cho cây.

Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc Cây Sầu Riêng

Cây sầu riêng là cây ăn quả nhiệt đới rất được ưa chuộng ở các nước Đông Nam Á. Do yêu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu ngày càng cao hơn, các nước như Mã Lai và Thái Lan tập trung nghiên cứu và phát triển cây sầu riêng từ nhiều năm trước đây. Nhờ có phương hướng phát triển rõ ràng, Thái Lan là nước xuất khẩu sầu riêng đi nhiều nước và có rất nhiều tiến bộ về kỹ thuật canh tác cây sầu riêng.

Tại Việt Nam, cây sầu riêng đã phát triển từ lâu, được quan tâm và đầu tư phát triển trong thời gian gần đây, nếu được trồng và chú ý đầu tư thâm canh, chăm sóc đúng kỹ thuật thì cây sầu riêng sẽ mang lại hiệu quả kinh tế rất cao so với các loại cây trồng khác.

1. Điều kiện sinh lý của cây sầu riêng:

+ Sầu riêng là cây ưa khí hậu nóng, độ ẩm không khí cao.

+ Không ưa với khí hậu nóng và khô hanh.

+ Lá là nơi dự trữ thức ăn chính của cây nên khi lá rụng là cây suy yếu và chết.

+ Trong giai đoạn chín mà mưa nhiều thì thịt trái sẽ nhão.

+ Cây có thể phát triển và sinh trưởng trên nhiều loại đất khác nhau nhưng tốt nhất là đất thịt, thoát nước tốt, độ dốc không quá 30 0, gần nguồn nước tưới.

+ Không chịu đất phèn, mặn và úng, phát triển kém trên đất sét nặng.

+ Cây sầu riêng không chịu được gió mạnh vì là loại thân gỗ yếu và có bộ rễ nông.

Sầu riêng không phải là cây tự thụ phấn mà là cây thụ phấn chéo nhờ côn trùng, gió, do đó nếu trồng bằng hạt thì sẽ xảy ra biến dị lớn. Vì vậy nên:

+ Trồng sầu riêng bằng cây ghép mắt hoặc ghép cành.

+ Cần trồng ít nhất 2 giống trên vườn để sự thụ phấn chéo xảy ra làm đậu trái sầu riêng tốt hơn.

– Gốc ghép: Được ương từ hạt sầu riêng thường.

– Cành, mắt ghép: Được chọn từ cây mẹ đầu dòng.

Tốt nhất nên trồng thưa để vườn thông thoáng, cây khoẻ mạnh, dễ chăm sóc và ít bị bệnh thối trái. Tuỳ theo thực tế mà có nhiều phương thức trồng như trồng thuần hay trồng xen.

+ Nếu trồng thuần: 125 cây – 156 cây/ha ( 8m x 8 -10m/cây)

+ Nếu trồng xen: 70 cây – 100 cây/ha (10m x 12m/cây)

+ Kích thước hố: Đất tốt thì 60 x 60 x 60cm; Đất xấu thì 70 x 70 x 70cm.

+ Bón lót: 15 – 20kg hữu cơ + 0,5kg super Lân + 200g NPK 16-16-8/hố,

10-20g Diazinon (Basudin 10G), Carbofuran (furadan 3G),… để trừ mối, dế, kiến và sâu đất.

+ Đảo trộn hỗn hợp đất và phân sau đó lấp hố trước khi trồng 10-15 ngày.

+ Moi giữa hố 1 lỗ vừa bịch cây con.

+ Xé bỏ bầu sao cho không bị vỡ bầu.

+ Đặt cây vào hố trồng, lấp đất ngang mặt bầu cây con.

+ Những nơi đất cao, sườn dốc, nên trồng âm sâu hơn mặt đất.

+ Lấp kín mặt bầu, dậm chặt.

+ Cắm cọc và buộc giữ cây con khỏi đổ ngã.

+ Vun mu rùa xung quanh gốc cây chống đọng nước.

+ Sau đó phủ kín cỏ rác để giữ ẩm cho cây.

+ Sau trồng cần che bóng cho cây con và không che quá 50% ánh sáng.

+ Cần tưới nước thường xuyên khi trời nắng hạn để giảm tỷ lệ cây chết, giúp cây khoẻ mạnh, nhanh cho trái.

+ Đầu mùa khô cần tủ cỏ rác xung quanh gốc để giữ ẩm cho cây.

+ Bón phân năm đầu: Hữu cơ + 0,3kg N:P:K:Mg 18:11:5:3 và chia ra 4 lần bón trong một năm.

– Giai đoạn cây con cần bón 5- 10kg phân hữu cơ/năm, kết hợp với phân vô cơ có lượng đạm cao như: 16-16-8, 20-20-15, và tăng dần ở những năm đầu cho trái. Liều lượng và số lần bón như sau:

– Giai đoạn cây cho trái ổn định thì bón 3 lần như sau:

+ Lần 1: Sau thu hoạch tỉa cành, bón 10- 20kg phân hữu cơ, kết hợp bón 5- 6 kg phân vô cơ/cây.

+ Lần 2: Trước ra hoa 30-40 ngày cần bón thúc ra hoa 2-3kg phân NPK có hàm lượng lân cao như: NPK 10-50-17 và tưới nước cách ngày.

+ Lần 3: Khi trái to bằng trái chôm chôm thì bón 2- 3kg phân NPK có hàm lượng kali cao như: NPK 12-12-17 kết hợp tưới nước.

Ngoài ra có thể sử dụng phân bón qua lá để góp phần tăng năng suất và phẩm chất trái.

Chú ý: Không nên bón phân KCl, vì phân sẽ làm giảm chất lượng trái.

3. Trồng cây chắn gió, che bóng, trồng xen che phủ đất:

+ Trồng các loại cây chắn gió và che bóng như : Keo lai, xà cừ…..

+ Không nên trồng xen các loại cây ký chủ của nấm Phytophthora. Như: Đu đủ, Dứa, Ca cao . . .

+ Cành mọc từ gốc ghép, mọc đứng.

+ Cành ốm yếu và chỉ để một ngọn.

+ Cành bị sâu bệnh.

+ Cành mọc gần mặt đất, chỉ để cành thấp nhất mang trái trên 1 mét.

+ Cứ một vị trí trên thân chỉ để 1 cành (tránh bị tét).

+ Khoảng cách các cành khi cây còn nhỏ là 10cm, cây lớn 30cm.

Mọc ngang, ở độ cao hợp lý, phân bố đều các hướng, cành khoẻ mạnh.

+ Trước 30 ngày sau khi đậu trái cần tỉa bỏ bớt hoa.

+ Các loại trái cần tỉa bỏ như: mọc dày, méo mó, sâu bệnh.

IV. PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH HẠI

1. Các loại sâu gây hại chính

Cách gây hại: Đây là đối tượng gây hại rất quan trọng trên cây sầu riêng, trưởng thành và ấu trùng thường sống ở mặt dưới lá và chích hút các lá non, lá bị hại thường có những chấm vàng, khi bị hại nặng lá thường khô, cong lại và rụng hàng loạt làm ảnh hưởng đến sự phát triển, ra hoa, đậu trái của cây. Ngoài ra, rầy còn tiết ra mật ngọt, tạo điều kiện để nấm bồ hóng phát triển. Rầy phát triển mạnh vào các tháng nắng.

Phòng trị: Khi lá non vừa ra thường xuyên phun nước để làm giảm mật số trưởng thành của ấu trùng, điều khiển cây ra đọt non đồng loạt để dễ trừ rầy. Khi mật độ rầy cao dùng các loại thuốc BVTV có hoạt chất như: Fenobucarb, Dimethoate, Cypermethrin (Bassa 50EC, Bitox 40EC, Cyper 25EC, …) để phun.

1.2. Rệp sáp Planococcus sp.):

Phòng trị: Thường xuyên thăm vườn kiểm tra; phun nước vào trái có thể rửa trôi rệp sáp trên trái, tỉa bỏ những trái non bị nhiễm nặng, không nên trồng xen cây cà phê, mãng cầu trong vườn; mật độ gây hại cao dùng các loại thuốc có hoạt chất như: Methidathion, Acephate (Supracide 40EC, Monster 40EC,…) để phun.

Cách gây hại: Con cái trưởng thành đẻ trứng trên vỏ trái non, sâu non nở ra thường ăn ở phần vỏ sau đó đục vào trong trái. Sâu gây hại từ khi trái còn non đến trưởng thành, đặc biệt gây hại nặng trên các chùm trái hơn là các trái đơn độc, trái non bị hại sẽ biến dạng và rụng, trái lớn bị hại sẽ làm ảnh hưởng đến giá trị thương phẩm và còn tạo điều kiện cho các loại nấm bệnh tấn công theo vết đục làm thối trái.

Phòng trị: Thường xuyên kiểm tra để phát hiện quả bị sâu, đem tiêu hủy quả bị gây hại nặng và bị rụng, dùng túi chuyên dùng để bao trái, cắt tỉa trái sáu, trái phát triển kém, khi mật độ gây hại cao dùng các loại thuốc BVTV có hoạt chất như: Diazinon, Nereistoxin (Dimehypo) (Basudin 40EC, Netoxin 18SL,….)

1.4. Nhện đỏ ( Eutetranychus sp.)

Cách gây hại: Thành trùng có hình oval dẹp màu đỏ đến đỏ nâu, thành trùng sống 6-7 ngày, nhện đẻ từng trứng rải rác trên mặt lá, trứng nhện hình tròn màu đỏ. Nhện đỏ phát triển mạnh trong điều kiện nóng ẩm ở vùng nhiệt đới, khả năng sinh sản cao, vòng đời ngắn, gây hại bằng cách ăn biểu bì mặt lá tạo thành những chấm trắng li ti và tiết độc tố. Khi bị nhiễm nặng lá chuyển màu vàng và rụng ảnh hưởng đến khả năng ra hoa và đậu trái của cây.

Phòng trị: Phun nước lên lá tạo độ ẩm trong mùa nắng sẽ làm giảm mật độ nhện, đồng thời tạo điều kiện cho thiên địch có lợi phát triển. Khi mật độ cao dùng các loại thuốc BVTV có hoạt chất như: Hexythiazox, Propargite, Dicofol (Nissorun 5EC, Comite 73EC, Kelthane 18,5EC,…) để phun.

2. Các bệnh gây hại chính

2.1. Bệnh thối gốc chảy nhựa (do nấm Phytophthora Palmivora):

Triệu chứng: Đây là bệnh hại rất quan trọng trên sầu riêng. Tác nhân do nấm Phytophthora Palmivora gây hại, nấm lưu tồn chủ yếu trong đất, trong nước, trong các bộ phận bị bệnh của cây sầu riêng. Nấm tấn công phần rễ non gần mặt đất và lan dần đến phần vỏ của gốc sát mặt đất và di chuyển lên phần vỏ của thân cây làm vỏ cây biến thành màu nâu, sau đó vỏ cây bị thối và chảy nhựa ra, phần gỗ tại vết bệnh cũng hóa nâu. Đôi khi nấm còn tấn công các cành phía trên cao của cây sầu riêng.

Bệnh thường xảy ra trong mùa mưa và dễ dàng gây hại trong các vườn trồng dày có tán lá rậm rạp, chăm sóc kém. Nấm bệnh còn tấn công trên trái làm thối trái hàng loạt và trên lá sầu riêng nhất là trên các lá non ở các cành gần mặt đất. Trong mùa mưa nếu không kiểm soát và quản lý vườn cẩn thận thì nấm sẽ tấn công trên lá và trái, đây là nguồn lây lan rất quan trọng của bệnh tại vườn sầu riêng.

Nên kết hợp nhiều biện pháp tổng hợp như:

+ Thường xuyên theo dõi để phát hiện sớm.

+ Không nên trồng quá dày và trồng xen với các loại cây cùng ký chủ của nấm.

+ Phải thay cây cũ triệt để và xử lý đất trước khi trồng mới.

+ Thu gom và tiêu huỷ những bộ phận của cây bị bệnh.

+ Luân canh đất trước đây đã trồng cây cùng ký chủ.

+ Tiêu huỷ sớm những cây già yếu, không hiệu quả.

+ Chú ý bón phân hữu cơ và NPK cân đối.

+ Đất phải thoát nước tốt, cách mực nước ngầm hơn 1m.

Trị bệnh: Khi cây bị bệnh nên cạo sạch phần bệnh, sau đó bôi thuốc BVTV có hoạt chất như: Fosetyl Aluminium, Metalaxyl 8% + Mancozeb 64%, Metalaxyl….Kết hợp với phun xịt với một trong các loại thuốc trên; bơm thuốc BVTV có hoạt chất Phosphorous acid với chế độ nước, dinh dưỡng đầy đủ.

Triệu chứng: bệnh này khá phổ biến trên cây sầu riêng, vết bệnh thường bắt đầu từ mép lá hay từ chóp lá lan dần vào trong phần phiến lá có màu nâu đậm. Vết bệnh điển hình là để lại các đường viền hình tròn có màu nâu đậm dọc hai gân chính. Thường bệnh xuất hiện trên cây kém phát triển, nhất là trong mùa nắng hay sau khi thu hoạch. Bệnh thán thư thường chỉ xuất hiện trên lá già.

+ Cắt bỏ đem tiêu hủy lá bệnh

+ Bón phân, tưới nước đầy đủ.

+ Sử dụng thuốc BVTV có hoạt chất: Metalaxyl 8% + Mancozeb 64%, Propineb, Carbendazim, Thiophanate – Methyl….

Triệu chứng: Bệnh đốm rong rất phổ biến và tấn công trên nhiều loại cây ăn quả khác nhau, thường bệnh tấn công trên lá và các cành cây ở các vườn sầu riêng chăm sóc kém.

Vết bệnh có hình tròn màu gạch tôm đường kính từ 0,2-1cm và hơi nhô lên, nếu nhìn kỹ thấy nhiều sợi tơ trên vết bệnh thường xuất hiện ở mặt trên của lá, rong hút dinh dưỡng và làm lá kém phát triển, giảm quang hợp. Bệnh còn tấn công trên cành cây vết bệnh cũng tương tự như trên lá, làm cành non bị nứt ra, vị trí nứt này cũng dễ nhiễm các loại nấm khác, đặc biệt là nấm Phytophthora palmivora trong mùa mưa.

Phòng trị: Tạo vườn cây thông thoáng, phun các loại thuốc có chứa gốc đồng như: Zineb 20% + Bordeaux 45% + Benomyl 10%, Copper Hydrocide, Copper Oxychloride, …

Triệu chứng: Đây là nấm gây bệnh khá quan trọng cho cây sầu riêng ở cả giai đoạn vườn ươm và cây trưởng thành. Vết bệnh xuất hiện ban đầu là những đốm màu nâu sũng nước, sau đó lan rộng dọc theo hai mép lá làm cho lá không phát triển được và co dúm lại cuối cùng lá khô và rụng, cành non cũng khô dần và chết cả cây. Trên cây trưởng thành bị nhiễm làm lá non bị khô và rụng; chết ngọn, cành và nhánh nhỏ, ảnh hưởng rất lớn tới năng suất. Thường bệnh xuất hiện và phát triển mạnh trong mùa mưa.

+ Thoát nước vườn ươm tốt, không quá rậm rạp.

+ Không đặt cây con dưới tán cây lớn.

+ Thu dọn, tiêu hủy (các phần cây bị bệnh, tránh lây lan).

+ Tỉa cành tạo tán thông thoáng.

+ Sử dụng thuốc BVTV có hoạt chất như: Hexaconazole, Difenoconazole 150g/l + Propiconazole 150g/l, Carbendazim….

Triệu chứng: Nấm bệnh thường tấn công trên các cành cây. Nấm thường tạo một lớp tơ, nấm lúc đầu có màu vàng trắng đục sau đó chuyển sang màu hồng nhạt phát triển xung quanh vỏ cành cây, nấm hút dinh dưỡng làm vỏ cành chỗ bị hại khô và rụng lá cả cành, cuối cùng làm cành chết khô.

Phòng trị: Tỉa cành thông thoáng, cắt bỏ tiêu hủy nhánh bị bệnh nặng, sử dụng thuốc BVTV như: Copper Hydrocide (Champion77WP), Validamycin A (Validamycin 3DD), Hexaconazole (Anvil 5SC)…

2.6. Bệnh thối hoa (do nấm Fusarium sp):

Triệu chứng: Hoa bị bệnh tấn công có màu nâu đen vết bệnh hơi lõm xuống. Nấm tấn công trên 2 mảnh vỏ bao quanh hoa sầu riêng, sau đó lan dần vào trong phần cánh hoa và làm hoa thối và rụng đi.

+ Tỉa cành, tạo tán cho cây và vườn cây thông thoáng, nên tỉa bớt và để các hoa trên cành thưa và rời nhau, làm vệ sinh và tiêu hủy các hoa nhiễm bệnh rơi rụng dưới tán cây.

+ Phun thuốc khi hoa chuẩn bị nở như: Zineb 20% + Bordeaux 45% + Benomyl 10%, Zineb 25% + Bordeaux 60%, Benlate, Iprodione (Rovral, Hạt vàng 50WP).

Nên thu trái từ trên cây và không để trái rụng xuống đất, cần chú ý không cho sự va chạm làm trầy xước trái, giữ trái nơi thoáng mát… để giảm sự thiệt hại ở giai đoạn sau thu hoạch.

Quy Trình Kỹ Thuật Bón Phân Cho Cây Sầu Riêng

1. Xác định nhu cầu dinh dưỡng của cây sầu riêng

Các chất dinh dưỡng có vai trò hết sức quan trọng giúp ổn định và tăng năng suất cho cây. Cây sầu riêng cần được cung cấp đầy đủ các nguyên tố đa, trung và vi lượng. Thiếu hoặc thừa một trong những yếu tố này đều ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển không bình thường của cây.

Nhu cầu dinh dưỡng của cây tăng theo tuổi cây và mức năng suất. Sầu riêng thu bói có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn cây kiến thiết cơ bản và cây trong vườn ươm. Sầu riêng kinh doanh có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn so với sầu riêng mới thu bói. Năng suất sầu riêng càng cao, càng cần phải bón nhiều phân hơn.

Sầu riêng rất cần kali nhưng không nên sử dụng kali clorua (KCl) mà phải sử dụng Kali Sulphate (K 2SO 4) và trung-vi lượng (TE) vì KCl làm sầu riêng giảm mùi thơm.

Khi cây sầu riêng cho năng suất quả 6.720 kg đã lấy đi 18,1 kg N, 6,6 kg P 2O 5, 33,5 kg K 2 O, 5,4 kg MgO và 2,6 kg CaO.

Đối với sầu riêng tất cả các chất đa lượng và các chất vi lượng như Kẽm, Bo… đều cần thiết cho giai đoạn đậu quả và phát triển quả, trong đó, N, P và là cần thiết nhất trong giai đoạn phát triển quả, K là chất dinh dưỡng cần thiết trong giai đoạn sau của sự phát triển quả cho đến khi thu họach.

+ Đạm (N): Đây là thành phần quan trọng cho tất cả bộ phận của cây và đặc biệt cần thiết cho sự sinh trưởng dinh dưỡng.

Đạm cần thiết cho sự phát triển của lá, thân cành, hoa, quả, hạt. Do vậy, cần bón đạm đầy đủ cho cây sầu riêng nhưng phải đảm bảo nguyên tắc 5 đúng (đúng loại, đúng nhu cầu, đúng loại đất, đúng liều lượng và đúng phương pháp), ngoài ra còn phải đảm bảo hiệu quả kinh tế.

Cây đủ đạm lá xanh tốt, cây phát triển khỏe, quả phát triển đều.

Sầu riêng được bón phân đầy đủ

Thiếu đạm: Lá có màu xanh vàng hay xanh noãn chuối. Thiếu nặng lá rụng nhiều, năng suất giảm. Hiện tượng thiếu đạm thường xảy ra trên đất nghèo dinh dưỡng và bón không đủ lượng đạm cây cần.

Thừa đạm: Phát triển thân lá mạnh, lá có màu xanh đậm, dễ bị sâu bệnh tấn công, đậu quả ít, rụng quả nhiều, quả phát triển không bình thường như mất gai, nứt quả…

Quả phát triển không bình thường do dư đạm

+ Lân (P): Sầu riêng cần lân tương đối ít. Dạng lân dễ tiêu trong đất thường bị giới hạn bởi việc cố định do các phản ứng hóa học, đặc biệt là ở đất chua. Nên thường xuyên bón phân lân với lượng nhỏ. Cần bón lót phân lân trong hố trước khi trồng để giúp cây tăng trưởng trong giai đoạn ban đầu.

Thiếu lân: Lá chuyển màu xỉn, mép lá non ửng đỏ, thiếu nặng lá rụng và cành chết.

+ Kali (K): Kali rất quan trọng khi cây ra quả, lượng kali trong quả rất lớn. Bón thường xuyên phân kali rất cần thiết để duy trì năng suất cao và phẩm chất ngon cho sầu riêng. Với đất nhiều K sẽ cản trở sự hấp thu Ca và Mg. Trong trường hợp này cần bón Ca và Mg nhưng không bón K. Kali làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với các tác động không lợi từ bên ngoài và chống chịu đối với một số loại bệnh. Kali tạo cho cây cứng chắc, ít đổ ngã, tăng khả năng chịu úng, chịu hạn, chịu rét.

Thiếu K: Mép lá chuyển màu vàng cam sau tới màu xám nâu và khô, lá rụng nhiều.

+ Lưu huỳnh (S): Thiếu S, hầu hết lá trên cây chuyển sang màu vàng, xuất hiện những vết như vết bệnh trên lá già. Ở lá non, lúc đầu có màu vàng sáng sau đó chuyển sang màu vàng nhạt, tương tự triệu chứng ở lá già. Lưu huỳnh được bón thông qua phân SA (chứa khoảng 24 % S); phân Super lân (Super lân chứa khoảng 14 % S). …

Ngoài ra, thiếu magiê: phần thịt lá bị vàng và lan dần từ gân chính ra mép lá; thiếu canxi: lá héo vàng từ rìa lá sau lan vào gân chính; thiếu kẽm: các lá và chồi đầu cành không phát triển tốt (rụt đọt), lá không thể nở lớn.

2. Xác định loại phân bón

2.1. Các loại phân bón cho sầu riêng

a. Phân hữu cơ

Các loại phân hữu cơ thường dùng để bón cho sầu riêng như phân gia súc, than bùn, phân ủ các dư thừa thực vật, phân xanh, phân cá…

– Tạo chất đệm, ổn định độ chua của đất tăng hiệu quả của việc bón phân vô cơ.

– Làm đất tơi xốp, giữ ẩm tốt, tăng độ phì nhiêu.

– Tạo môi trường thuận lợi để vi sinh vật phát triển và hoạt động làm tăng khả năng kháng bệnh đối với cây trồng.

– Chi phí thấp.

– Hiệu quả chậm;

– Cồng kềnh, tốn công vận chuyển;

– Hàm lượng dưỡng chất thấp, không ổn định, khó kiểm soát.

Để nâng cao hàm lượng dinh dưỡng phân chuồng, nên tận dụng các dư thừa thực vật có sẳn để độn vào phân chuồng và ủ phân trước khi sử dụng.

Các nguyên liệu để độn/lót chuồng: Trấu, rơm rạ để độn vô chuồng vừa làm chuồng khô, ấm vừa hút nước tiểu của gia súc để tránh trôi và bốc hơi.

Các nguyên liệu để ủ chung với phân: Lá rụng khô: Điều, sầu riêng, cỏ…

Thân cành lá tươi thu được từ dọn vườn, tỉa cành sầu riêng, cây che bóng. Tất cả được ủ chung với phân chuồng.

Hiện nay, nông dân chưa tận dụng được các tàn dư thực vật để độn với phân chuồng nên phân có chất lượng kém. Do đó, các dư thừa thực vật ” không nên đốt bỏ”, mà nên giữ lại để độn ủ chung với phân chuồng vừa tăng khối lượng phân đồng thời tăng cả về chất lượng.

Có thể lựa chọn các cách ủ phân hữu cơ như sau:

– Ủ nóng: Khi lấy phân ra khỏi chuồng để ủ, phân được xếp thành từng lớp ở nơi có nền không thấm nước, nhưng không được nén. Sau đó, tưới nước phân lên, giữ độ ẩm trong đống phân 60 – 70%. Có thể trộn thêm 1% vôi bột (tính theo khối lượng) trong trường hợp phân có nhiều chất độn. Trộn thêm 1 – 2% supe lân để giữ đạm. Sau đó trát bùn bao phủ bên ngoài đống phân. Hàng ngày tưới nước phân lên đống phân.

Sau 4 – 6 ngày, nhiệt độ trong đống phân có thể lên đến 50 – 60 o C. Các loài vi sinh vật phân giải chất hữu cơ phát triển nhanh và mạnh. Các loài vi sinh vật háo khí chiếm ưu thế. Do tập đoàn vi sinh vật hoạt động mạnh cho nên nhiệt độ trong đống phân tăng nhanh và đạt mức cao. Để đảm bảo cho các loài vi sinh vật háo khí hoạt động tốt cần giữ cho đống phân tơi, xốp, thoáng.

Phương pháp ủ nóng có tác dụng tốt trong việc tiêu diệt các hạt cỏ dại, loại trừ các mầm móng sâu bệnh. Thời gian ủ tương đối ngắn. Chỉ 30 – 40 ngày là ủ xong, phân ủ có thể đem sử dụng. Tuy vậy, phương pháp này có nhược điểm là để mất nhiều đạm.

– Ủ nguội: Phân được lấy ra khỏi chuồng, xếp thành lớp và nén chặt. Trên mỗi lớp phân chuồng rắc 2% phân lân. Sau đó ủ đất bột hoặc đất bùn khô đập nhỏ, rồi nén chặt. Thường đống phân được xếp với chiều rộng 2 – 3 m, chiều dài tuỳ thuộc vào chiều dài nền đất. Các lớp phân được xếp lần lượt cho đến độ cao 1,5 – 2,0 m. Sau đó trát bùn phủ bên ngoài.

Do bị nén chặt cho nên bên trong đống phân thiếu oxy, môi trường trở lên yếm khí, khí cacbonic trong đống phân tăng. Vi sinh vật hoạt động chậm, bởi vậy nhiệt độ trong đống phân không tăng cao và chỉ ở mức 30 – 35oC. Đạm trong đống phân chủ yếu ở dạng amôn cacbonát, là dạng khó phân huỷ thành amôniac, nên lượng đạm bị mất giảm đi nhiều.

Theo phương pháp này, thời gian ủ phân phải kéo dài 5 – 6 tháng phân ủ mới dùng được. Nhưng phân có chất lượng tốt hơn ủ nóng.

– Ủ nóng trước, nguội sau: Phân chuồng lấy ra xếp thành lớp không nén chặt ngay. Để như vậy cho vi sinh vật hoạt động mạnh trong 5 – 6 ngày. Khi nhiệt độ đạt 50 – 60oC tiến hành nén chặt để chuyển đống phân sang trạng thái yếm khí.

Sau khi nén chặt lại xếp lớp phân chuồng khác lên, không nén chặt. Để 5 – 6 ngày cho vi sinh vật hoạt động. Khi đạt đến nhiệt độ 50 – 60 o C lại nén chặt.

Cứ như vậy cho đến khi đạt được độ cao cần thiết thì trát bùn phủ chung quanh đống phân. Quá trình chuyển hoá trong đống phân diễn ra như sau: Ủ nóng cho phân bắt đầu ngấu, sau đó chuyển sang ủ nguội bằng cách nén chặt lớp phân để giữ cho đạm không bị mất.

Để thúc đẩy cho phân chóng ngấu ở giai đoạn ủ nóng, người ta dùng một số phân khác làm men như phân bắc, phân tằm, phân gà, vịt… Phân men được cho thêm vào lớp phân khi chưa bị nén chặt.

Ủ phân theo cách này có thể rút ngắn được thời gian so với cách ủ nguội, nhưng phải có thời gian dài hơn cách ủ nóng.

Tuỳ theo thời gian có nhu cầu sử dụng phân mà áp dụng phương pháp ủ phân thích hợp để vừa đảm bảo có phân dùng đúng lúc vừa đảm bảo được chất lượng phân.

– Ủ phân hữu cơ vi sinh

Nguồn phế thải nông, lâm nghiệp và công nghiệp thực phẩm như: Rơm rạ, thân lá cây bắp (ngô), đậu phộng (lạc), đậu đỗ sau thu hoạch, cây phân xanh, bèo tây (lục bình)…; Vỏ cà phê, trấu…; Các loại mùn: than mùn (than bùn dùng trong sản xuất phân bón), mùn: mía, cưa, giấy…Phân gia súc, gia cầm…

Cám gạo, rỉ mật hoặc mật mía.

Chế phẩm sinh học (Men ủ): Men cái hoặc men ủ hoàn chỉnh như chế phẩm BIMA (Trichoderma), ACTIVE CLEANER (xạ khuẩn Streptomyces sp, nấm Trichoderma sp, vi khuẩn Bacillus sp), Canplus, Emuniv, SEMSR, BIO-F, BiOVAC, BiCAT, Bio EM…

Lưu ý: Đa số các loại chế phẩm sử dụng để sản xuất phân hữu cơ vi sinh hiện nay khi sử dụng tuyệt đối không rắc thêm các loại phân vô cơ hoặc vôi, vì như vậy nó sẽ tiêu diệt vi sinh vật có ích cho quá trình phân hủy. Tuy nhiên, cũng có một số loại chế phẩm hoàn toàn có thể rắc thêm phân vô cơ hoặc vôi như BioEM… mà không ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật, đồng thời làm tăng quá trình phân hủy chất hữu cơ khi ủ. Cụ thể: Lượng vôi sử dụng cho 1 tấn phân ủ từ 10 – 15kg, phân NPK từ 5 – 10kg hoặc đạm từ 1 – 2kg và lân từ 5 – 10kg.

Nguyên liệu chuẩn bị cho một đóng ủ phân hữu cơ 2,5 – 3 m3 (1 tấn phân hữu cơ vi sinh)

+ Phế phụ phẩm có nguồn gốc từ cây xanh: 600 – 800 kg;

+ Phân chuồng: 200 – 400 kg;

+ Chế phẩm sinh học: Đủ cho ủ 1 tấn phân.

+ Nước gỉ đường hoặc mật mía: 2 – 3 kg; Nếu không có nước gỉ mật hoặc mật mía thì có thể dùng các phụ phẩm vỏ quả chín, quả chuối chín nẫu… ngâm vào nước thay thế, ngâm trước khi ủ phân 2 – 3 ngày.

+ Cám gạo: 3 kg.

+ Chuẩn bị dụng cụ: Bình tưới ô doa (loại bình dùng để tưới rau), cào, cuốc, xẻng, rành (rổ)… Vật liệu để che đậy, làm mái: Có thể dùng các loại vật liệu sẵn có như bạt, bao tải, chúng tôi đậy và các loại lá để làm mái tránh mưa, ánh nắng và giữ nhiệt cho đống ủ.

Địa điểm ủ nên thuận tiện cho việc ủ và vận chuyển sử dụng. Nền chỗ ủ bằng đất nện, lát gạch hoặc láng xi măng, nền nên bằng phẳng hoặc hơi dốc. Nếu nền bằng phẳng nên tạo rãnh xung quanh và hố gom nhỏ để tránh nước ủ phân chảy ra ngoài khi tưới quá ẩm. Có thể ủ trong nhà kho, chuồng nuôi không còn sử dụng để tận dụng mái che. Nếu ủ trong kho phải có thoát nước. Để ủ 1 tấn phân ủ cần diện tích nền khoảng 3 m2.

+ Các bước ủ phân hữu cơ vi sinh

Bước 1. Thu gom các nguồn hữu cơ (đã tưới ẩm qua đêm) chất theo đống hoặc để trong bạt nhựa đục một lớp dày khoảng 20 cm.

Thu gom các nguồn hữu cơ

Bước 2. Tưới nước vừa đủ ẩm, trong quá trình tưới dùng chân đạp để đống hữu cơ được nén dẽ xuống.

Tưới nước

Bước 3. Rắc một lớp tro mỏng.

Rắc tro

Bước 4. Cho vào một lớp phân chuồng.

Thêm phân chuồng

Bước 5. Trộn chế phẩm vi sinh và nước gỉ mật: Chia đều chế phẩm và nước gỉ mật làm 5 phần. Cho 1 phần chế phẩm và nước gỉ mật vào ô doa nước khuấy đều và tưới lên đống ủ.

Chuẩn bị tưới nấm Tricoderma

Bước 6. Cho thêm một lớp xác bã thực vật và tiếp tục lặp lại thứ tự trên (bước 1 đến bước 5) cho đến khi đống ủ cao khoảng 1,2 – 1,6 mét.

Cho thêm xác bả thực vật

Bước 7. Lớp xác bã thực vật sau cùng khi tưới nấm Trichoderma được vun lên thành mô để tránh đọng nước trên bạt.

Vun mô

Bước 8. Phủ kín và chèn thật kỹ bạt nhựa để giữ ẩm.

Che tủ

Bước 9. Kiểm tra đống ủ sau khi ủ 7 – 10 ngày xem có đủ ẩm và còn tơi xốp không. Đảo đống ủ để tăng cường ôxi giúp vi sinh vật hoạt động tốt.

Kiểm tra đống ủ

Bước 10. Tưới nước để duy trì độ ẩm của đống ủ khi đống ủ quá khô. Vừa tưới vừa kết hợp đảo đều đống ủ.

Tưới nước cho đống ủ

Bước 11. Sau khi tưới nước và đảo đống ủ thì che tủ đống ủ như ở bước 8.

Che đống ủ sau khi tưới nước và đảo đều đống ủ

Lưu ý: Cứ 7 – 10 ngày sau lại mở đống ủ ra kiểm tra, nếu thấy đống ủ khô thì tiến hành tưới nước và đảo đều đống ủ (làm như bước 9 – bước 11).

Trong khi ủ, không nên sử dụng trấu hoặc xơ dừa vì có nhiều chất chát sẽ làm cho nấm khó phát triển, không dùng nilon trong mà phải dùng bạt đục để phủ đống ủ.

Nguồn nguyên liệu xác bã hữu cơ được xếp như sau: vật liệu khô (rơm rạ…..) để lớp dưới, tiếp đến vật liệu ướt như lục bình, thân dây rau màu còn tươi để lớp trên….

Khi ủ nhiệt độ đống ủ đã hạ xuống không còn nóng nữa (khoảng 6 tuần sau khi ủ) thì tưới vi sinh vật cố định đạm và hòa tan lân (nếu có).

Thời gian ủ dài hay ngắn tuỳ theo loại nguyên liệu và mùa vụ, kéo dài từ 1-4 tháng. Khi kiểm tra thấy đống phân màu nâu đen, tơi xốp, có mùi chua nồng của dấm, thọc tay vào đống phân thấy ấm vừa tay là phân đã hoai mục (chín hoặc ngấu), hoàn toàn có thể đem sử dụng.

Phân dùng không hết nên đánh đống lại, che đậy cẩn thận hoặc đóng bao để dùng về sau. Phân ủ xong sử dụng tốt nhất trong vòng 1 năm và hiệu quả sử dụng đạt cao nhất trong một tháng khi phân ngấu.

Phân ủ chủ yếu dùng để bón lót cho các loại cây trồng, có thể sử dụng bón thúc đối với các loại rau và hoa. Cách bón tương tự như bón phân hữu cơ truyền thống khác.

Nên sử dụng phân ủ vi sinh bón cho sầu riêng vì tốn chi phí, tận dụng nguồn phế phẩm và phế thải trong quá trình trồng trọt và chăn nuôi, hạn chế đến mức thấp nhất nguồn bệnh lây lan, bảo vệ môi trường sống trong lành. Nông dân ở vùng chăn nuôi nhỏ, lẻ có sẳn nguồn phân chuồng và nguồn xác bã thực vật cũng nên mạnh dạn ủ phân là góp phần đảm bảo an toàn chất lượng sản phẩm, góp phần xây dựng nền nông nghiệp bền vững.

b. Phân vô cơ

Đối với cây sầu riêng cần bón các loại phân vô cơ chứa đạm, lân, kali và một số phân vi lượng. Tùy theo nhu cầu dinh dưỡng ở mỗi giai đoạn phát triển mà lựa chọn các loại phân vô cơ để bón cho phù hợp.

* Ưu điểm của phân vô cơ:

– Đáp ứng nhanh kịp thời nhu cầu của cây.

– Hàm lượng dinh dưỡng thường cao, ổn định và dễ kiểm soát. – Dễ vận chuyển, dễ sử dụng.

* Hạn chế của phân vô cơ:

– Sử dụng đơn độc lâu ngày đất bị chai cứng, chua, cây hấp thụ kém.

– Hạn chế vi sinh vật phát triển.

Chất cải tạo đất

* Vôi: Thông thường người ta bón vôi để nâng cao độ pH của đất, để cải tạo lý, hoá tính của đất, xúc tiến quá trình phân giải chất hữu cơ, tăng cường sự sinh trưởng phát triển của VSV trong đất, giải phóng lân bị cố định.

* Dolomite: Thông thường sử dụng vôi bột để bón cho đất trồng sầu riêng nhưng nếu có điều kiện nên dùng Dolomit thay vôi để vừa cung cấp Canxi vừa cung cấp Magie cho sầu riêng . Đất có độ pH ≤ 5,5 là phải bón vôi, nhưng phải bón nhiều năm liền để nâng độ pH lên chứ không nên bón nhiều 1 lần với số lượng lớn.

Chất vi lượng bón cho sầu riêng thường được phối hợp dưới hình thức một loại phân bón hỗn hợp nào đấy, có thể ở dạng thô sử dụng bón lót hoặc bón thúc, cũng có thể ở dạng dung dịch sử dụng phun vào lá.

2.2. Tính lượng phân bón cho cây sầu riêng

– Giai đọan cây con và những năm đầu cho quả: Bón 5 – 10kg phân gà/gốc (hoặc phân hữu cơ đã hoai mục) kết hợp với phân vô cơ theo công thức N:P:K:Mg = 18:11:5:3 hoặc: 15:15:6:4. Liều lượng và số lần bón trong năm như bảng dưới.

Liều lượng và số lần bón phân theo tuổi cây

– Giai đoạn cho quả ổn định: Đối với cây có đường kính tán 5 – 6 m đang phát triển bình thường có thể bón như sau:

+ Lần 1: Ngay sau khi thu hoạch xong cần tiến hành tỉa cành, bón phân hữu cơ hoai mục 20 – 30kg/cây (hoặc phân Humix, Dynamic lifter theo liều lượng khuyến cáo trên bao bì) kết hợp với phân vô cơ có hàm lượng đạm cao theo công thức N:P:K:Mg (18:11:5:3) với liều lượng 2 – 3kg/cây.

+ Lần 2: Trước ra hoa 30 – 40 ngày bón phân vô cơ có hàm lượng lân cao theo công thức N:P:K:Mg (10:50:17:2) với liều lượng 2 – 3kg/cây để giúp quá trình ra hoa dễ dàng.

+ Lần 3: Khi quả sầu riêng lớn bằng quả chôm chôm cần bón phân có hàm lượng kali cao theo công thức N:P:K:Mg (12:12:17:2) với liều lượng 2 – 3kg/cây.

+ Lần 4: Trước khi quả chín 1 tháng bón 2 – 3 kg phân như NPK (16-16-8) kết hợp với 1 – 1,5kg phân K2SO4 để tăng chất lượng quả.

Có thể sử dụng phân bón Komix chuyên dùng cho cây sầu riêng để bón cho cây với liều lượng như sau :

– Giai đoạn cây con và lúc bắt đầu cho quả: đầu mùa mưa mỗi gốc bón 3- 4 kg phân Lân hữu cơ vi sinh Komix và 20 kg phân Komix chuyên dùng cho Sầu Riêng, với lượng phân chuyên dùng này ta có thể chia làm 4 lần bón trong năm.

– Giai đoạn cây cho quả ổn định: bón hoàn toàn bằng phân Komix chuyên dùng cho sầu riêng, với liều lượng như sau:

+ Sau thu hoạch bón: 5 – 10kg phân Lân hữu cơ vi sinh Komix + 10kg phân chuyên dùng.

+ Trước khi cây ra hoa: bón 10 kg phân Komix chuyên dùng cho cây sầu riêng.

+ Khi quả sầu riêng to bằng quả chôm chôm: bón 10 kg phân Komix chuyên dùng cho cây.

3. Chuẩn bị trước khi bón

3.1. Chuẩn bị phân bón

– Chuẩn bị phân bón chứa đạm: Phân urê (46%) hoặc Sunphat đạm (phân SA) chứa 20 – 21% nitơ (N) hoặc Phôtphat đạm (phốt phát amôn) chứa 16% đạm và 20% lân.

– Chuẩn bị phân bón chứa lân: Supe lân và Lân nung chảy, chứa từ 15,5% – 17% Ô-xít Phốt-pho (P 2O 5 hữu hiệu).

– Chuẩn bị phân bón chứa kali: Sun-phat Ka-li (SOP, K 2SO 4) chứa 50% Ô-xít Ka-li (K 2 O).

– Chuẩn bị phân bón lá: Composition, Fetrilon-combi, Super vi lượng..

– Chuẩn bị phân hữu cơ: Phân bò, phân gà, phân heo (lợn), phân hữu cơ vi sinh, phân dơi, phân cá …

3.2. Chuẩn bị dụng cụ để bón phân

– Chuẩn bị dụng cụ, trang thiết bị để bón phân: Cân trọng lượng, xô, chậu, thúng, túi nilon, máy bón phân…

4. Kỹ thuật bón phân cho sầu riêng

4.1. Bón phân giai đoạn kiến thiết cơ bản

Căn cứ vào nhu cầu dinh dưỡng của giai đoạn kiến thiết cơ bản để xác định thời điểm bón phân cho phù hợp:

Lượng NPK hoặc hỗn hợp phân được chia đều và bón nhiều lần trong năm (4 – 6 lần). Nếu có điều kiện nên bón hàng tháng sẽ cho kết quả tốt hơn. Có thể sử dụng thêm phân bón lá nếu cây phát triển kém, chú ý phun ở mặt dưới lá.

Phân hữu cơ và vôi: Bón 1 lần vào đầu mùa mưa.

Phân vi lượng: Phun 2 lần trong năm.

​Bón gốc

– Phân hữu cơ: Bón vào hố trước khi trồng hoặc rải quanh bồn ở phía ngoài rìa tán lá, xới nhẹ và đều.

– Phân vô cơ: Bón tập trung ở tầng đất mặt (cây sầu riêng có bộ rễ ăn nông chỉ từ 0 – 30 cm). Trong thời kỳ kiến thiết cơ bản bộ rễ cây sầu riêng chưa phát triển mạnh nên bón quanh và cách gốc 20 cm tùy theo độ lớn của cây. Tủ lên một lớp đất mỏng và dùng lá cây, cỏ, tủ lên trên.

Phun trên lá

Thường áp dụng đối với các loại phân vi lượng như Supper Zinc K. Cần lưu ý sử dụng đúng nồng độ như khuyến cáo để tránh gây cháy lá hoặc ngộ độc. Để tăng hiệu quả của phân bón lá nên phun vào buổi sáng và phun mặt dưới của lá.

Bước 3. Tiến hành bón phân cho sầu riêng

– Bón lót: Trộn phân hữu cơ hoặc phân chuồng và vôi đều với đất vào hố/gốc và lấp hố trước khi trồng 15 – 30 ngày.

– Bón thúc: Xới nhẹ đất trong tán, rải đều phân và phủ một lớp đất mỏng lên trên.

Tưới nước đủ ẩm sau khi bón phân để phân hòa tan cho cây trồng dễ hấp thu nhưng không được tưới quá nhiều sẽ trôi mất phân.

Có thể kết hợp với các biện pháp tủ đất vừa giúp giữ ẩm vừa giảm lượng phân bay hơi.

4.2. Bón phân giai đoạn kinh doanh

Căn cứ vào nhu cầu dinh dưỡng của giai đoạn kinh doanh để xác định thời điểm bón phân cho phù hợp:

Lần 1: Ngay sau khi thu hoạch xong cần tiến hành tỉa cành, bón phân gà hoai mục 20 – 30 kg/cây (hoặc phân Humix, Dynamic lifter theo liều lượng khuyến cáo) kết hợp với phân vô cơ có hàm lượng đạm cao theo công thức N: P: K: Mg (18:11: 5: 3 hoặc 15:15: 6: 4) với liều lượng 2 – 3 kg/cây.

Lần 2: Trước ra hoa 30 – 40 ngày bón phân vô cơ có hàm lượng lân cao theo công thức N: P: K (10:50:17) với liều lượng 2 – 3kg/cây để giúp quá trình ra hoa dễ dàng.

Lần 3: Khi quả sầu riêng to bằng quả chôm chôm cần bón phân có hàm lượng kali cao theo công thức N: P: K: Mg (12:12:17:2) với liều lượng 2 – 3 kg/cây.

Lần 4: Trước khi quả chín 01 tháng bón 2 – 3 kg phân NPK như NPK (16:16:8) kết hợp với 1 – 1,5 kg phân KNO 3 để tăng chất lượng quả.

Nên chú ý, đây là lần bón phân thứ 4 sau khi thu hoạch vụ trước và cũng là lần bón phân cuối cùng của vụ quả năm này, lần bón phân này không bón trễ hơn 1 tháng trước thu hoạch. Bởi vì bón như vậy, sẽ có nhiều nguy cơ làm giảm phẩm chất quả như cơm quả bị sượng, bị nhão.

Ngoài ra, còn có thể sử dụng phân bón lá có hàm lượng kali cao để góp phần nâng cao năng suất phẩm chất quả. Có thể phun phân bón lá làm 5 lần, mỗi lần cách nhau 1 tuần, bắt đầu từ tuần thứ 5 đến tuần thứ 9 sau khi đậu quả.

​Bón gốc

– Phân hữu cơ: Bón rải quanh bồn

ở phía ngoài rìa tán lá, xới nhẹ và đều hoặc đào rãnh rộng 10 – 30 cm, sâu 10

– 20 cm xung quanh đường kính tán, bón xong lấp đất lại.

Đào hố quanh tán bón phân hữu cơ

– Phân vô cơ: Bón giống như thời kỳ kiến thiết cơ bản (xới đất nhẹ, rải phân trong tán, cách gốc 20 cm, lấp đất nhẹ, tưới nước và tủ gốc).

Bón phân vô cơ

Phun trên lá

Phun theo hướng dẫn trên bao bì theo giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây.

Bước 3. Tiến hành bón phân cho sầu riêng

– Bón lót: Trộn phân hữu cơ hoặc phân chuồng và vôi đều với đất vào rãnh rồi lấp đất lại.

– Bón thúc: Xới nhẹ đất trong tán, rải đều phân và phủ một lớp đất mỏng lên trên.

Tưới nước đủ ẩm sau khi bón phân để phân hòa tan cho cây trồng dễ hấp thu nhưng không được tưới quá nhiều sẽ trôi mất phân. Có thể kết hợp với các biện pháp tủ đất vừa giúp giữ ẩm vừa giảm lượng phân bay hơi.

– Khi bón phân kết hợp tưới nước vừa đủ ẩm: Bón phân xong cần tưới nước ngay và tủ gốc lại giữ ẩm giúp phân tan và giữ trong đất để cây hút từ từ.

– Vào tháng 2 và 3 không nên bón phân vì thời tiết nóng, đất khô, thiếu nước nên hiệu quả phân bón thấp.

– Đối với vùng đất có pH thấp nên dùng DAP bón thay NPK loại 16:16:8.

– Làm sạch cỏ xung quanh gốc sầu riêng; xén và bứng rễ cây trồng xen tạm thời hay bằng cách xén rãnh xung quanh bồn để hạn chế sự cạnh tranh dinh dưỡng với cây sầu riêng.

– Hạn chế sự mất mát phân do bốc hơi, do nước chảy tràn bằng cách làm bồn, tủ gốc bằng lớp lá cây cỏ lên trên xung quanh gốc.

– Tránh bón phân lúc mưa to và lúc không có nước tưới.

– Làm bồn chỉ nên xới xáo vùng từ rìa tán lá ra phía ngoài, xới xáo nhẹ vùng bên trong tán lá vì xới xáo mạnh sẽ làm tổn thương rễ sầu riêng.

– Không sử dụng đơn độc phân vô cơ mà cần bón phân hữu cơ hàng năm.

5. Bón phân cho sầu riêng theo nguyên tắc 5 đúng

5.1. Bón đúng loại phân

– Cây sầu riêng yêu cầu phân gì thì bón phân đó. Phân bón có nhiều loại, nhưng có 3 loại chính là đạm – N, lân – P, kali – K. Lưu huỳnh (S) cũng rất cần nhưng với lượng ít hơn. Mỗi loại có chức năng riêng. Bón phân không đúng yêu cầu, không phát huy được hiệu quả còn gây hại cho cây.

– Bón đúng không những đáp ứng được yêu cầu của cây mà còn giữ được ổn định môi trường của đất.

Ở đất chua tuyệt đối không bón những loại phân có tính axit cao quá ngưỡng và trên nền đất kiềm không bón các loại phân có tính kiềm cao quá ngưỡng.

5.2. Bón đúng nhu cầu sinh lý của cây sầu riêng

– Nhu cầu dinh dưỡng của cây sầu riêng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển. Ở giai đoạn sinh trưởng cần đạm hơn kali; ở thời kỳ phát triển quả lại cần kali hơn đạm. Bón đúng loại phân mà cây cần mới phát huy hiệu quả.

– Trong suốt thời kỳ sống, cây sầu riêng luôn luôn có nhu cầu các chất dinh dưỡng cho sinh trưởng và phát triển, vì vậy khi bón phân nên chia ra bón nhiều lần theo quy trình và bón vào lúc cây phát triển mạnh, không bón một lúc quá nhiều. Việc bón quá nhiều phân một lúc sẽ gây ra thừa lãng phí, ô nhiễm môi trường, cây sử dụng không hết sẽ làm cho cây biến dạng dễ nhiễm bệnh, năng suất chất lượng nông sản thấp.

– Bón phân có 3 thời kỳ: bón lót trước khi trồng (hay bón hồi phục sau khi cây thu hoạch vụ trước), bón thúc (nhằm thúc đẩy quá trình sinh trưởng của cây, tạo chồi lá mới) và bón rước hoa, nuôi hoa, bón nuôi quả…

5.3. Bón đúng điều kiện đất đai

Bón phân là hình thức bổ sung vào đất chất dinh dưỡng cho cây sầu riêng. Ngoài ra, còn có các vi sinh vật đất phân hủy các chất hữu cơ sẵn có hoặc cố định N từ không khí vào đất, do vậy bón phân còn có tác dụng kích thích hoạt động của tập đoàn vi sinh vật đất. Nhờ đó cây được tăng cường cung cấp lượng các chất dinh dưỡng cân đối hơn. Bón phân không những cần cho cây sầu riêng mà còn giúp cho vi sinh vật đất phát triển hữu hiệu hơn.

5.4. Bón đúng lúc

Mùa vụ, nhiệt độ và thời tiết ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của phân bón. Mưa làm rửa trôi, trực di phân bón (phân chảy xuống tầng đất dưới), nắng khô làm phân bón khó tan và rất dễ bốc hơi, cây không còn nhiều dinh dưỡng để phát triển, đôi khi còn gây cháy lá, hư hoa, hư quả… Vì vậy, nên bón phân cho cây sầu riêng lúc sáng sớm, chiều mát tránh bón vào buổi trưa, ngày mưa lớn…

Bón đúng loại phân, bón đúng thời cơ, bón đúng đối tượng làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với hạn, thời tiết bất thường của môi trường và với sâu bệnh gây hại (ví dụ phân kali).

Bón phân không phải lúc nào cũng để cung cấp dinh dưỡng thúc đẩy cây sầu riêng phát triển mà còn có trường hợp phải dùng phân để tác động hãm bớt tốc độ sinh trưởng nhằm tăng tính chịu đựng của cây trước các yếu tố xấu phát sinh.

5.5. Bón đúng phương pháp

Có 2 loại phân bón: Phân bón gốc và phân bón lá. Tùy nhu cầu phát triển của mỗi giai đoạn mà có phương pháp bón thích hợp. Với phân bón gốc thì bón vào hố, rãnh theo vành tán lá hoặc rải đều trên mặt đất. Với phân bón lá thì phun đều trên lá, nếu ướt được cả 2 mặt lá thì càng tốt.

Nguồn: Giáo trình nghề trồng cây sầu riêng – Bộ NN&PTNT

Kỹ Thuật Chăm Sóc Cây Sầu Riêng: Tưới Và Tiêu Nước Cho Sầu Riêng

1. Xác định nhu cầu nước của cây sầu riêng

– Khi cây còn nhỏ, chưa ra hoa kết quả cần tưới đủ ẩm cho cây. Thiếu nước, cây có thể chết héo. Thừa nước rễ không phát triển được, có thể bị thối và chết.

Vào giai đoạn này nhu cầu về ẩm độ của cây sầu riêng là 65 – 80% độ ẩm tối đa.

Ở giai đoạn mới trồng nếu tưới kịp thời và đầy đủ, cây con sẽ nhanh bén rễ, phát triển xanh tốt.

Sầu riêng mới trồng bị thiếu nước

– Khi cây ra hoa, kết quả:

+ Yêu cầu về lượng nước tưới nhiều hơn giai đoạn còn nhỏ.

+ Trong một năm tùy theo thời kỳ phát triển, yêu cầu về ẩm độ cũng khác nhau:

Trước khi ra hoa cây yêu cầu ẩm độ thấp.

Khi đã đậu quả, đặc biệt khi quả lớn nhanh yêu cầu ẩm độ cao 70 – 90%. Nếu thiếu nước quả sẽ bị rụng và làm giảm sản lượng cũng như chất lượng quả.

Sầu riêng được tưới nước đầy đủ cho quả tốt

Tuy vậy, cũng không yêu cầu ẩm độ tối đa vì sẽ ức chế hoạt động của rễ và quả cũng bị rụng do rễ không hút đủ dinh dưỡng nuôi cây và khi cây đang thiếu nước mà ta lại tưới nhiều nước làm cây bị sốc nước nên hoa, quả sẽ rụng.

Khi quả sắp chín, yêu cầu về ẩm độ lại thấp (khoảng 50 – 60%). Nếu ẩm độ cao sẽ làm giảm chất lượng quả và quả chín muộn.

2. Tưới nước cho sầu riêng

Bước 1. Xác định thời điểm tưới cho cây sầu riêng

– Giai đoạn cây con: Tưới nước để giảm tỷ lệ cây chết, giúp cây phát triển mạnh, nhanh cho quả.

Sầu riêng giai đoạn cây con

– Giai đoạn cây ra hoa và cho quả:

+ Lúc ra hoa sầu riêng cần tưới nước 2 ngày một lần để cho hạt phấn khỏe mạnh, nhưng cần phải giảm 2/3 lượng nước ở mỗi lần tưới vào thời điểm 1 tuần trước khi ra hoa.

+ Sau khi đậu quả tiến hành tưới tăng dần lượng nước đến mức bình thường trở lại giúp quả phát triển khỏe, chất lượng tốt.

Sầu riêng giai đoạn ra hoa

Bước 2. Xác định độ ẩm đất đối chiếu với nhu cầu của cây

– Dùng máy đo độ ẩm hoặc dùng tay kiểm tra độ ẩm đất trong từng giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây sầu riêng để xác định lượng nước tưới cũng như phương pháp tưới phù hợp.

– Quan sát tầng đất mặt và độ cương nước của cành lá, nhất là ở các bộ phận non. Quan sát tốt nhất là thời gian giữa trưa, khi cây thoát hơi nước nhiều nhất và nếu đất thiếu ẩm thì lá dễ héo.

Nếu độ ẩm đất nhỏ hơn yêu cầu của cây thì phải tiến hành tưới nước. Ví dụ: Giai đoạn cây con mà độ ẩm đất là 50% thì phải tưới ngay để đưa độ ẩm lên 65 – 80%… Nhưng nếu giai đoạn chín mà độ ẩm đất là 80% thì phải tiêu nước ngay.

Bước 3. Chọn phương pháp tưới nước

1. Tưới bằng những dụng cụ đơn giản (thủ công): Dùng thùng, xô … tưới nước cho từng gốc sầu riêng.

Mương chứa nước tưới cho sầu riêng và tưới nước cho sầu riêng bằng phương pháp thủ công

Phương pháp này rất đơn giản, chỉ cần cho nước vào hệ thống mương trong vườn và dùng những dụng cụ đơn giản như xô, thùng tưới hay dụng cụ tự chế để tưới đủ ẩm cho sầu riêng.

2. Tưới bằng dây mềm (tưới bán thủ công): Dùng ống nhựa mềm có gắn bơm tưới để phun nước vào gốc cây.

Tưới nước bằng dây mềm

Khi tưới bằng dây mềm thì cần chuẩn bị máy bơm, hệ thống điện, đường ống dẫn nước và dây tưới. Trước hết, cần lắp hệ thống điện, sau đó đặt máy bơm ở ngoài vườn trồng để bơm nước, cần tưới đến khu vực nào thì lắp đặt đường ống dẫn nước đến đó và cần tưới cho cây nào thì nối ống dây mềm với đường ống dẫn nước đến cây đó.

Hệ thống điện và máy bơm đặt âm trong lòng đất

Đường ống dẫn nước và nối ống dây mềm để tưới với đường ống dẫn nước

Tưới thủ công và bán thủ công rất dễ thực hiện nhưng tốn nhiều công sức và khó có thể áp dụng trên diện tích lớn.

3. Tưới béc

Tước béc cho cây ăn trái thường được bà con nông dân sử dụng cho cây sầu riêng là phương pháp Tưới phun mưa dưới gốc, còn được hiểu là tưới phun mưa cục bộ là hình thức tưới phun mưa bán kính nhỏ (thường từ 0.5m – 3m), béc tưới được đặt dưới gốc cây. Đây là phương pháp tưới lai giữa tưới nhỏ giọt và phun mưa. Mang đầy đủ lợi thế của cả hai phương pháp tưới như tiết kiệm nước, tiết kiệm điện năng, có thể châm phân trực tiếp tới bộ rễ, nước thấm từ từ; cải tạo môi trường mát mẻ cho cây trồng, cung cấp đủ nước cho cây trồng. Ngoài việc áp dụng tưới béc cho cây sầu riêng, thì Tưới béc cũng rất phù hợp cho tưới các loại cây công nghiệp như Cà phê, hồ tiêu, ca cao; các loại cây ăn trái như xoài, các loại cây có múi (bưởi, cam, quýt, chanh); tưới thanh long; các loại cây lâu năm như Sầu riêng, bơ; các loại cây dây leo trồng trên giàn có bộ rễ phủ toàn diện tích như chanh leo, gấc, mướp, mướp đắng…

4. Tưới nhỏ giọt:

Tưới nhỏ giọt là phương pháp tưới thấm nước từ từ vào trong đất, nước đi ngay vào hệ thống rễ, không phí nước vào những vùng không có sự sinh trưởng.

* Ưu điểm:

– Lượng nước tưới ít.

– Ít mất nước do gió và nắng.

– Không cần áp suất lớn để cung cấp nước, hạn chế cỏ dại.

Tưới nhỏ giọt

– Có thể bón phân qua hệ thống tưới nhỏ giọt, tiết kiệm được phân bón và công lao động.

* Nhược điểm: Chi phí ban đầu hơi cao.

Hệ thống tưới nhỏ giọt cho sầu riêng

Bố trí hệ thống tưới nhỏ giọt và các đường ống dẫn nước và đường ống tưới nhỏ giọt

Có 2 hình thức bố trí ống tưới: 1, ống chôn dưới đất và ống để trên mặt đất. Ống để trên mặt đất có lợi là dễ kiểm soát và điều chỉnh vị trí đặt ống, lắp đặt sẽ ít tốn công sức hơn. Nhược điểm là làm vướng đi lại và ống dễ bị lão hóa do phơi thường dưới ánh mặt trời.

Ngược lại, ống chôn dưới đất dùng được lâu năm hơn, giảm đáng kể lượng nước mất đi do bốc hơi nhưng phải tốn công đào – đặt – lấp và có khó khăn khi tìm đoạn bị nghẽn hoặc hư hỏng.

Kiểu tưới nhỏ giọt có ống để trên mặt đất và kiểu tưới nhỏ giọt có ống chôn dưới đất

Vật liệu cần có

– Nguồn nước mặt hoặc nước ngầm.

– 1 máy bơm thông thường động cơ điện hay dầu, xăng, có khả năng bơm nước lên độ cao 3,5 m. Có thể lắp thêm rơle tự đóng mở (đối với hệ thống bơm điện để tự động bơm nước vào bồn).

– Ống nhựa PV cứng đường kính 30 – 40 mm hay 60 mm làm ống dẫn nước chính và loại đường kính 16 – 21 mm làm ống dẫn phụ.

– Các phụ kiện lắp ráp hệ thống ống gồm các co, khúc nối thẳng, khúc nối chữ T, khúc nối giảm đường kính ống, ống van cánh bướm và keo để dán các khúc nối.

– Ống nhựa dẻo đường kính 5 mm – 16 mm và một trong những loại vòi phun tia li tâm, phun tia cố định, nhỏ giọt. Có thể chế đầu nhỏ giọt bằng ống và van của hệ thống truyền “nước biển” trong bệnh viện.

Một số kiểu vòi nhỏ giọt trên thị trường

– Vật liệu làm bồn nước gồm:

+ 4 hoặc 6 trụ xi măng, cây vuông hay cây tròn cũng được, dài 3 – 4 m, kèm theo các tấm đan dày làm miếng kê chống lún, chống mục cho cột.

+ Một số cây làm dằng chéo các cột. Ít nhất cần có 8 cây đà dọc, ngang và 3- 4 cây đà chịu lực đáy bồn nước.

+ Ván làm vách thành và đáy bồn nước dày hơn 2 cm. 1 tấm vải bạt xe (mủ sọc) và một tấm mủ trong loại dày làm lòng hồ 2 lớp.

+ Một khớp nối răng bằng thau hoặc bằng nhựa có đường kính phù hợp nối với đường kính ống chính; khớp này dùng để làm cửa lấy nước vì vậy cần có 2 miếng đệm mê-ka và 2 miếng đệm cao su chống rò rỉ nước.

+ Cần 1 lưới lọc nước thô kiểu cái túi gắn vào phía trên cửa lấy nước.

+ Một số vật liệu làm mái che bồn nước bằng chất liệu có sẵn, tole hoặc lá.

Thực hiện

– Dựng hệ thống cột, dằng chéo, đà ngang, dọc, sử dụng khoan bắt ốc hoặc đinh 7 – 10 cm, dùng dây dọi, ống bọt nước để cân chỉnh các chiều thẳng đứng và mặt phẳng ngang.

– Đóng ván từ trong lòng bồn ra phía ngoài bằng đinh 5cm tạo cho vách bồn và đáy bồn thật phẳng, ở một tấm ván đáy có chứa lỗ lấy nước.

– Trải tấm vải mủ sọc và tấm vải mủ trong, ém kỹ cho sát vào góc và thành bồn.

– Tại vị trí lỗ định sẵn ở miếng ván đáy hồ, tiến hành tạo cửa lấy nước (đục thấu 2 lớp vải mủ) bằng đục tròn, luồn khớp nối răng trong ở dưới lên (đã lắp miếng đệm mê-ka và đệm cao su) tương tự lắp ống ra ngoài, siết thật chặt.

Hiện nay trên thị trường có các loại bồn nhựa có dung tích lớn hơn hoặc bằng 1m3 có nắp đậy rất tiện cho việc lắp đặt bồn và không phải thiết kế mái che cũng có thể được sử dụng rất tốt.

Bồn nước bằng nhựa

Nối hệ thống tưới vào máy:

+ Lắp hệ thống ống dẫn chính theo chiều dài thửa đất.

+ Nối ống dẫn chính sang ống phụ theo líp bằng khớp nối chữ T giảm đường kính.

+ Lắp các ống nhánh tới các gốc cây và lắp vòi phun hay dụng cụ nhỏ giọt.

Lắp ống dẫn chính

Ống nước được nối ngầm dưới đất và Nối các ống dẫn nước phụ

Co nối từ ống dẫn chính sang ống dẫn phụ và nối từ ống 25 mm sang ống 5 mm

Lắp đặt hệ thống tưới nước tự động bằng năng lượng mặt trời và nước chảy ra từ hệ thống tưới nhỏ giọt

Lưu ý: Các vòi phun và lỗ nhỏ giọt hướng lên phía trên để tránh cặn làm tắc ống và dễ kiểm tra lưu lượng nước tưới, nơi gần nguồn bố trí lỗ nhỏ giọt nhỏ hơn nơi cuối nguồn. Sau đó, hoàn thiện hệ thống và tiến hành tưới nước.

Bảo quản và vận hành

– Tất cả đường ống chính và phụ cần được chôn sâu 20 – 30 cm để kéo dài tuổi thọ của ống, đoạn cuối của ống nhánh cũng cần được che phủ tránh nắng và rêu phát triển trong ống.

– Thường xuyên giặt rửa lưới lọc nước trên bồn.

– Sau mùa tưới, mở khóa đầu các ống nhánh, xả bỏ cặn sình toàn bộ hệ thống.

4, Tưới rãnh: Là phương pháp tưới nước để nước chảy theo các rãnh được thiết kế giữa các hàng cây. Nước được thấm dần vào đất và cung cấp cho cây trồng.

Hệ thống tưới rãnh điển hình

Ưu điểm của hệ thống tưới rãnh

+ Tiết kiệm và chủ động được nước tưới cho vườn cây, lớp đất mặt vẫn tơi xốp, không bị dí chặt, kết cấu đất vẫn giữ vững, đất không bị bào mòn, chất dinh dưỡng không bị rửa trôi.

+ Giảm được tổn thất nước do bốc hơi nên cho hiệu quả tưới cao hơn.

+ Nước đi vào cây qua hệ thống rễ, không làm ướt lá nên có thể tránh được một số bệnh cho cây.

Nhược điểm của hệ thống tưới rãnh

+ Lãng phí một phần nước ở cuối rãnh tưới.

+ Vận chuyển công cụ sản xuất qua rãnh gặp khó khăn;

+ Chi phí nhân công khá lớn và mat nhiều thời gian cải tạo các rãnh nước.

+ Người quản lý nước phải biết kiểm soát mực nước vừa phải.

Rãnh tưới ở các vùng đồng bằng có thể bố trí theo 2 hình thức:

+ Khi độ dốc mặt đất nhỏ hơn khoảng 0,2 – 0,5 % thì có thể bố trí chạy theo hướng dốc của mặt đất.

+ Khi độ dốc mặt đất lớn hơn 0,5% thì nên bố trí rãnh xiên một góc nhọn với hướng dốc nhằm hạn chế tốc độ chảy cao, giảm xói mòn đất.

Đối với các vùng miền núi, vùng bán sơn địa, độ dốc mặt đất không đồng đều thì có thể căn cứ vào đường đồng mức mà bố trí rãnh lượn theo đường đồng cao độ.

Ta có thể phân biệt 2 loại rãnh: rãnh cạn (không giữ nước) và rãnh sâu (có giữ nước) tùy theo điều kiện cụ thể.

Rãnh cạn (rãnh không giữ nước) là sau khi tưới, nước sẽ thấm hết vào đất. Loại này thích hợp cho đất ít dốc (dưới 0,2 – 0,5%). Khi thấm xuống đất, khu đất thấm nước sẽ có hình quả trứng.

Vùng đất ướt khi tưới rãnh

Khoảng cách giữa hai rãnh phải dựa vào đặc tính đất, bố trí sao cho hai vòng hình quả trứng có thể giao cắt nhau tạo độ ẩm ở vùng ướt trong đất vừa đủ cho rễ cây trồng hút nước. Có thể chọn khoảng cách hai rãnh theo bảng.

Khoảng cách tham khảo giữa hai rãnh theo loại đất

Mô hình tưới rãnh

Bước 4. Chuẩn bị nguồn nước, trang thiết bị, dụng cụ và vật tư tưới nước

Nguồn nước tưới: Sông, hồ, kênh mương, đập hay nước giếng. Đảm bảo nước không bị nhiễm mặn hay phèn.

Lưu ý: Không tưới nước bị nhiễm độc từ các nhà máy, cơ sở sản xuất hoặc nước thải từ khu công nghiệp.

Mương lấy nước vào vườn sầu riêng

– Chuẩn bị trang thiết bị dụng cụ tưới nước: Cuốc (hoặc leng), máy bơm nước, giàn tưới phun, đường ống dẫn nước…

– Vật tư: Dầu, xăng, mỡ…

Bước 5. Tiến hành tưới nước cho sầu riêng

Tưới nước cho sầu riêng phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây sầu riêng.

* Tưới sau khi trồng:

– Dùng thùng tưới có gắn vòi hoa sen tưới nhẹ nhàng quanh gốc.

– Lượng nước tưới vừa đủ ẩm, không được tưới nước bằng ống nước có dòng nước xối mạnh làm rửa trôi, tróc gốc, đất bị váng, cây khó ra rễ.

Tưới bằng thùng tưới

Sầu riêng mới trồng nên tưới ngày một lần trong khoảng 4 tháng.

Sau đó chỉ tưới khi gặp hạn.

Tủ gốc bằng rơm, cỏ khô sẽ bớt được công tưới; nhưng mùa mưa nên bỏ rơm tủ đi vì dễ gây bệnh và cũng là ổ chứa mối hại cây sầu riêng.

Tưới sầu riêng giai đoạn mới trồng

* Tưới nước giai đoạn kiến thiết cơ bản:

Khi thấy cây có hiện tượng thiếu nước phải tiến hành tưới nước ngay.

Lượng nước tưới tùy theo mức độ khô hạn và phương pháp tưới, thông thường tưới 20 – 30 lít nước/cây cho 1 lần tưới.

Khoảng cách giữa 2 lần tưới từ 15 – 25 ngày. Nếu số lần tưới càng nhiều thì lượng nước ít lại.

Tưới nước giai đoạn kiến thiết cơ bản

* Tưới nước giai đoạn kinh doanh:

Lượng nước tưới: 60 đến 80 lít/cây cho 1 lần tưới nếu tưới bằng phương pháp tưới thủ công, còn tưới bằng phương pháp nhỏ giọt thì cần 15 – 20 lít.

Khoảng cách giữa 2 lần tưới phụ thuộc vào từng điều kiện cụ thể.

Tưới nước giai đoạn kinh doanh

Riêng ở giai đoạn ra hoa và hình thành quả cây sầu riêng cần nhiều hơn, vì vậy cần đảm bảo tưới cho cây sầu riêng đủ nước. Nhưng đến giai đoạn quả gần chín tưới nhiều cơm sầu riêng sẽ nhão.

Lưu ý: Để khắc phục hiện tượng hạt có nước và nhão cơm nên rút cạn nước trong mương hoặc ngưng thu hoạch hai ngày sau khi có mưa lớn.

Áp dụng biện pháp phủ plastic xung quanh gốc sầu riêng ở giai đoạn một tháng trước khi thu hoạch để ngăn cản không cho nước mưa xâm nhập vào vùng rễ sẽ làm giảm tỉ lệ sượng cơm quả và hạt có nước.

Giữ mực nước trong mương trong vườn thường xuyên ở độ sâu 60 – 80 cm từ mặt liếp sau khi đậu quả.

Thường xuyên bơm nước ra khỏi vườn, nhất là sau các trận mưa lớn để không làm tăng mực nước trong mương và trong liếp.

Quản lý mực nước trong vườn ở độ sâu 60-80 cm sau khi ra hoa

3. Tiêu nước cho sầu riêng

3.1. Xác định tác hại của sự ngập úng đối với cây sầu riêng

Khi trồng sầu riêng trên vùng đất thấp sẽ dễ bị rủi ro do ngập úng, do tần suất xuất hiện lũ ngày càng cao trong những năm gần đây, đặc biệt là vùng ĐBSCL. Lũ lụt ĐBSCL thường xảy ra trong ba tháng 9, 10, 11 hàng năm, với đỉnh lũ thường tập trung vào cuối tháng 9, 10. Hầu hết các vườn sầu riêng đều bị ảnh hưởng và thiệt hại với mức độ khác nhau do nước dâng cao hoặc mưa kéo dài.

Nguyên nhân là do:

1, Hiện tượng đất bị đóng váng bề mặt do nước mưa xói mòn, hoà tan các hạt sét nhỏ và phủ kín các khoảng trống trên mặt đất hoặc do lớp phù sa (từ ngập lụt) bồi kín mặt đất làm đất không còn thoáng khí.

2, Đất bị ngập nước, nên không còn đủ oxy cung cấp cho rễ hô hấp (chỉ sau 24 – 48 giờ), đất trở nên dư thừa nước và rễ rất dễ bị huỷ hoại.

3, Do khả năng thoát lũ kém, mực nước trong các mương vườn thường rất cao (hiện tượng úng cục bộ hay từng phần) làm hạn chế và hủy hoại hệ thống rễ mọc sâu dưới tầng đất mặt.

Các nguyên nhân này làm đất bị thiếu oxy, đồng thời bị ngộ độc CO2 cùng các độc chất khác, rễ bị “nghẹt” và sau đó bị thối. Hậu quả này làm các loài nấm bệnh trong đất (chủ yếu là Fusarium và Phytophtthora) rất dễ tấn công gây hại cho cây sầu riêng trong và sau mùa lũ. Hiện tượng nghẹt rễ cũng làm cho cây bị “stress”, tổng hợp khí độc (ethylene) bên trong gây ngộ độc, làm lá bị vàng và rụng, đặc biệt sau khi nước rút.

Vào mùa nước dâng cao hay mưa to kéo dài, đất bị úng làm rễ non bị thối, nếu kéo dài, rễ già bị hư hại. Cây ngừng tăng trưởng, có thể bị còi cọc, đậu quả ít, rụng lá, suy kiệt, chết cây….

Mưa nhiều, thoát nước không kịp sầu riêng ít quả và sầu riêng bị ngập nước lá rụng, rễ thối đen không có khả năng phục hồi

Tuy nhiên, khả năng chịu ngập của sầu riêng còn thay đổi tuỳ thuộc vào:

– Tuổi cây: Cây tơ (chưa cho quả) chịu ngập kém hơn cây trưởng thành hoặc đã trồng lâu năm trên 10 năm.

– Tình trạng cây: Cây đang phát triển sinh khối (ra đọt, phát triển rễ tơ, ra hoa mang quả) phải tiêu tốn nhiều năng lượng dự trữ nên khả năng chịu đựng cũng kém hơn.

– Biện pháp canh tác: Cũng tác động đến khả năng chịu ngập của sầu riêng như bón phân (nhất là khi thừa N và P) trong khoảng một tháng trước khi bị ngập hay mưa dầm làm giảm khả năng chịu đựng của cây rất nhiều.

Quan sát tình hình mặt đất, bộ rễ và màu sắc của cây trồng, ta có thể biết được tình trạng úng ngập trong đất và phải nhanh chóng thoát thủy. Các dấu hiệu thông thường là:

Trên mặt đất: đất trở nên nhão nhẹt, nước đọng thành vũng không rút xuống được. Màu đất trở nên xám hoặc có nhiều đốm xám do thiếu sự hiện hiện của oxy hoặc các acid hữu cơ độc hại.

Xuất hiện các loại thực vật ưa nước: như cỏ lông chồn, cỏ lác, rêu, nấm cây, …

Côn trùng: các loại muỗi, bù mắt, sên xuất hiện.

Trên cây: lá cây bị đổi màu vàng, xám hoặc đen. Thân cây trở nên mềm, dễ đổ ngã, rễ cây cạn, có màu đen, …

Lưu ý: Để hạn chế tác hại do ngập lụt cần xử lý vườn cây trước mùa mưa lũ:

– Tôn cao đất liếp, gia cố đê bao chắc chắn.

– Dùng cuốc ba răng xới mặt liếp cho xốp sau đó rải phân nhằm giúp phân bón tiếp cận cây trồng dễ dàng hơn, hạn chế gây tổn thương rễ cây.

– Tu sửa lại mương máng, cống thoát nước để thoát nước nhanh khi mưa to, đảm bảo mực nước ở mương phải thấp hơn mặt liếp 0,6 m. Chuẩn bị máy bơm để sẵn sàng chống úng.

– Khi mưa liên tục cần thiết phải đào rãnh phụ sâu 40 cm để dẫn nước mưa thoát nhanh từ liếp ra mương.

– Cắt tỉa các cành vô hiệu, chồi vượt để hạn chế tiêu hao chất dinh dưỡng, tránh lay động gốc ảnh hưởng đến rễ khi bị ngập.

– Hạn chế đi lại trong vườn làm cho đất bị dí chặt, ảnh hưởng đến bộ rễ cây và khả năng phục hồi của cây sau khi nước rút.

– Không nên bón nhiều phân đạm, vì phân đạm sẽ kích thích cây ra đọt non.

– Không nên bón phân hữu cơ chưa hoai mục cho vườn cây vì phân hữu cơ sẽ làm tiêu hao nhiều oxy và khi đất bị ngập úng thì rễ cây sẽ không đủ oxy để hô hấp.

– Để tránh hiện tượng rửa trôi thì cắt bớt cỏ chỉ giữ lại gốc. Có thể chọn loại cỏ họ hoà bản như cỏ sả hay cỏ rusi để vừa kết hợp cho đất liếp vườn được tốt vừa tận dụng cho chăn nuôi.

– Có thể bồi sình trả lại lớp đất mặt cho liếp làm hàng năm hoặc hai năm một lần, nhưng nên chú ý đến tầng phèn nếu bỏ lên trên mặt liếp thì chắc chắn mặt liếp sẽ bị phèn. Bề dày của lớp sình bồi phải vừa phải (khoảng 5 cm).

– Cần bón thêm vôi để hạ phèn và làm giảm đi mầm bệnh trong đất (Bệnh xì mủ gốc sầu riêng thường dễ xảy ra nếu trên vườn không có hệ thống thoát nước tốt).

– Mùa mưa cỏ dại phát triển mạnh, để hạn chế cỏ nên dùng thuốc Gramoxone làm cháy bộ lá, giữ lại phần gốc làm thảm thực vật cho vườn cây được êm hơn.

3.2. Tiêu nước cho vườn sầu riêng

Tiêu nước hay thoát thủy là biện pháp kỹ thuật nhằm rút bớt nước ứ đọng trong đất ruộng nhiều quá mức khiến sự sống, tăng trưởng và năng suất cây trồng có thể bị ảnh hưởng.

Việc tiêu nước trong đất còn có ý nghĩa trong việc cải tạo đất, rửa mặn, xả phèn, tạo thông thoáng cho tầng rễ và hạn chế mầm bệnh có hại cho cây trồng. Tiêu nước đôi khi cần thiết để tạo thuận lợi cho việc đi lại trong đồng ruộng hoặc cơ giới hóa.

a. Lợi ích của việc tiêu nước kịp thời

– Đất sẽ được thoáng khí hơn và cây trồng dễ dàng hấp thu dưỡng khí;

– Khi mực nước ngầm được hạ thấp, rễ cây dễ dàng phát triển sâu hơn và hấp thu nhiều dưỡng chất trong đất hơn;

– Đất khô ráo giúp cho người cũng như các thiết bị cơ giới thuận tiện di chuyển để chăm sóc cây;

– Đất được tiêu nước sẽ giúp các vi sinh vật hiếu khí hoạt động mạnh làm cho sự phân hủy các chất hữu cơ trong đất nhanh hơn, thúc đẩy quá trình nitrat hóa (phân giải đạm);

– Sự tiêu nước sẽ làm hạn chế các mầm bệnh và côn trùng phát triển;

– Tiêu nước đúng kỹ thuật có thể làm giảm hiện tượng xói mòn đất.

b. Thiết kế hệ thống tiêu nước

Có hai hệ thống tiêu chính:

– Hệ thống tiêu mặt: Áp dụng để tiêu thoát nước khi có lượng mưa quá lớn hoặc lũ/triều tràn sông gây úng ngập trên mặt vườn.

Thông thường áp dụng biện pháp tiêu theo trọng lực, nước sẽ tự chảy đi theo hướng chảy từ nơi cao xuống nơi thấp (mương thoát nước). Nếu nước nguồn quá lớn phải có đê bao và dùng bơm để thoát nước.

Hệ thống tiêu mặt

– Hệ thống tiêu ngầm: Chủ yếu sử dụng khi mực nước ngầm dâng cao (do mưa, lũ, triều) gây úng bộ rễ cây trồng.

Đối với hệ thống tiêu ngầm, phổ biến là hình thức dùng các ống cống chôn ngầm dưới lớp rễ cây và cho nước tập trung vào đường ống rồi dẫn ra ngoài bằng bơm hoặc tự chảy.

Tiêu ngầm có thể có lợi thế là ít bị xói mòn hơn tiêu mặt nhưng chi phí đầu tư và bảo trì sẽ lớn hơn.

Hệ thống tiêu ngầm

Một số lưu ý khi bố trí kênh tiêu:

+ Tuyến kênh tiêu phải nằm ở vị trí địa hình thấp để có thể dễ tập trung nước bằng hình thức tự chảy theo trọng lực;

+ Tuyến kênh tiêu phải ngắn để nhanh chóng thoát nước ra khỏi khu vực cần tiêu và giảm khối lượng thi công;

+ Tránh để đường kênh tiêu đi qua các vùng đất nhiều chứng ngại vật, công trình và khu vực có nền đất không ổn định.

+ Triệt để lợi dụng các sông rạnh tự nhiên để làm kênh tiêu; nếu cần có thể nạo vét các mương rạch để làm nơi nhận nước tiêu;

+ Có thể kết hợp kênh tiêu nước với kênh – rạch giao thông.

c. Tiêu nước trong mùa mưa

Phương châm tiêu nước là sự tổng hợp của “Rải nước – Chôn nước – Tháo nước”:

– Rải nước: Chia nhỏ các khu tiêu nước riêng biệt nhằm phân tán lượng nước cần tiêu theo yếu tố địa hình. Nghĩa là, nước ở tiểu vùng nào thì tiêu ngay ở chỗ đó.

– Chôn nước: Cho nước lắng rút xuống tại chỗ ở những nơi trũng hoặc trữ tạm ở các ao, đìa, kênh tiêu để trữ tạm thời.

– Tháo nước: Dùng biện pháp tiêu thoát nhanh tại những nơi có thể rút tháo nước thuận lợi. Đôi khi tháo nước cần có những biện pháp hỗ trợ như dùng bơm để bơm nước ra ngoài khu vườn.

Tóm lại, khai rãnh ở mặt liếp, thoát nước trong mương (dựa vào triều kém hoặc bơm thoát nước) ngay để hạ nhanh mực thuỷ cấp trong liếp, giúp đất nhanh thông thoáng hơn và rễ nhanh hồi phục hơn.

d. Phục hồi vườn cây sau ngập lụt

Sau mùa lũ nếu chăm sóc không đúng quy trình kỹ thuật sẽ rất dễ ảnh hưởng đến năng suất của những vụ sau. Do đó cần áp dụng các biện pháp khắc phục:

– Xới mặt đất (ở vùng tán cây) bằng cuốc răng (dài 8 – 10 cm) để phá váng, giúp đất được thông thoáng.

– Đào mương để nước rút nhanh ra khỏi vườn cây.

– Nên sử dụng phân bón lá có chứa đầy đủ các dưỡng chất cần thiết cho cây trồng như: N, P, K, Ca, Mg, S, Fe… để phun trên lá, thân cây. Cắt tỉa cành non, lá non ra trong giai đoạn vườn cây bị ngập úng.

– Có thể sử dụng tổ hợp phân DAP (dạng công nghiệp) cộng với Sulphat kali với tỉ lệ: 2 phần DAP, 1 phần Sulphat kali trộn đều, sau đó lấy từ 100 – 150g hoà tan trong một bình 10 lít và phun đều lên trên lá.

– Cần cung cấp thêm chất vôi cho vườn cây ăn quả trong giai đoạn này với liều lượng từ 0,5 – 1 kg cho mỗi gốc (khoảng 500 kg – 1.000 kg/ha).

Chú ý trị các loại bệnh do nấm tấn công ở vùng gốc và rễ cây bằng các loại thuốc thích hợp.

Nguồn: Giáo trình nghề trồng cây sầu riêng – Bộ NN&PTNT

Cách xác định độ ẩm đất, thời điểm tưới và tiêu nước cho cây chôm chôm; Tưới và tiêu nước phù hợp với yêu cầu nước của cây chôm chôm…

Cách đặt cây vào hố trồng, lấp đất cho gốc cây, cắm cọc giữ cho cây đứng vững, tưới nước, che nắng, phủ (tủ) gốc cho cây sầu riêng và măng cụt sau trồng

Paclobutrazol khống chế sự phát triển chiều cao cây, giúp cây đẻ nhánh khỏe và phòng tránh đổ ngã ở lúa, đậu phộng. Đối với các loại cây ăn quả khác: Sầu riêng, vải, cam, quýt, bưởi,… giúp tạo ra trái nghịch vụ và ra hoa

Tăng hiệu quả kích thích ra hoa nếu sử dụng kết hợp Thiourea nồng độ 0,5% với chất kích thích sinh trưởng PBZ (Paclobutrazol). Phun Thiourea nồng độ 0,5% ở giai đoạn…

Bạn đang đọc nội dung bài viết Quy Trình Chăm Sóc Cây Sầu Riêng trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!