Đề Xuất 3/2023 # Phát Triển Cây Jatropha Để Sản Xuât Diesel Sinh Học Ở Vn # Top 12 Like | Vitagrowthheight.com

Đề Xuất 3/2023 # Phát Triển Cây Jatropha Để Sản Xuât Diesel Sinh Học Ở Vn # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phát Triển Cây Jatropha Để Sản Xuât Diesel Sinh Học Ở Vn mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

I. Nguồn gốc

Cây Jatropha curcas L., thuộc chi Jatropha, họ Thầu dầu. Chi Jatropha có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, ghép từ hai chữ Iatrós (bác sĩ) và trophé (thức ăn), ám chỉ công dụng làm thuốc của cây này. Curcas là tên gọi thông thường của cây Physic nut ở Malabar, Ấn Độ. Tên thông dụng ở các nước hiện nay là Jatropha, ở Việt Nam gọi là cây Cọc giậu, Cọc rào, Cây li, Ba đậu nam, Dầu mè…

Jatropha là một loài cây có lịch sử 70 triệu năm, nguồn gốc từ Mexico (nơi duy nhất có hóa thạch của cây này) và Trung Mỹ, được người Bồ Đào Nha đưa qua Cape Verde, rồi lan truyền sang châu Phi, châu Á, sau đó được trồng ở nhiều nước, trở thành cây bản địa ở khắp các nước nhiệt đới, cận nhiệt đới trên toàn thế giới.

Từ năm 1991, Giáo sư người Đức là Klause Becker của Trường Đại học Stuttgart đã nhận đơn đặt hàng của Tập đoàn Daimler Chrysler hợp tác với hãng tư vấn của Áo tiến hành nghiên cứu cây Jatropha ở Nicaragua để làm nguyên liệu sản xuất diesel sinh học, từ đó dấy lên cơn sốt Jatropha trên phạm vi toàn cầu. Hiện nay nhiều nước trên thế giới đang chạy đua phát triển cây này, nhất là các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Malaixia, Indonexia, Philippin, Mianma và nhiều nước Châu Phi, nhằm phục vụ nhu cầu năng lượng tại chỗ và xuất khẩu.

 II. Giá trị cây Jatropha

Jatropha vốn dĩ là một cây dại, bán hoang dại mà người dân các nước trồng chỉ để làm bờ rào và làm thuốc, nhưng với những phát hiện mới của khoa học, đã cho thấy Jatropha có tiềm lực giá trị cực kỳ to lớn, được đánh giá rất cao, thậm chí đã có những lời ca ngợi có phần quá đáng, nhưng dù sao, Jatropha vẫn là một loại cây hết sức quý giá mà loài người phải quan tâm khai thác tốt những giá trị sinh học của cây này.

1. Về kinh tế, xã hội

Phát hiện quan trọng nhất từ Jatropha là lấy hạt làm nguyên liệu sản xuất dầu diesel sinh học.

Hạt Jatropha có hàm lượng dầu trên 30%, từ hạt ép ra dầu thô, từ dầu thô tinh luyện được diesel sinh học và glyxerin. Mặc dầu diesel sinh học được sản xuất từ nhiều loại nguyên liệu: cải dầu, hướng dương, đậu tương, dầu cọ, mỡ động vật…, nhưng sản xuất từ Jatropha vẫn có giá thành rẻ nhất, chất lượng tốt, tương đương với dầu diesel hóa thạch truyền thống.

Nếu 1 ha Jatropha đạt năng suất 8-10 tấn hạt/ha/năm có thể sản xuất được 3 tấn diesel sinh học. Loại dầu này sẽ thay thế được 1 phần dầu diesel truyền thống đang cạn kiệt, giảm thiểu được lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, là loại dầu cháy hết và không có lưu huỳnh, là dầu sạch, thân thiện với môi trường.

Hạt Jatropha sau khi ép dầu, 30% là sản phẩm dầu, 70% là khô dầu, có hàm lượng protein khoảng 30%, dùng làm phân hữu cơ quý, nếu khử hết độc tố có thể làm thức ăn gia súc cao đạm.

1 ha Jatropha, giả thiết đạt 10 tấn hạt/ha/năm sẽ thu được các loại sản phẩm chủ yếu có giá trị cao như sau:

– dầu diesel sinh học: 3 tấn x 700 USD/tấn = 2.100 USD

– bã khô dầu: 7 tấn x 300 USD/tấn = 2.100 USD

Như vậy 1 ha Jatropha tạo ra giá trị khoảng 4.200 USD/năm (hơn 60 triệu đồng/ha/năm), lợi nhuận thu được sẽ phân phối cho nông dân sản xuất nguyên liệu và nhà đầu tư công nghiệp chế biến dầu.

Jatropha còn tạo ra hiệu ứng xã hội cực kỳ to lớn. Do trồng ở các vùng miền núi nghèo túng, cây Jatropha sẽ tạo nhiều việc làm và thu nhập khả quan cho đồng bào các dân tộc, trong khi cho đến nay, trên đất dốc còn lại của các vùng này vẫn chưa tìm kiếm được bất cứ cây gì khả dĩ trồng được trên diện tích lớn, có thu nhập cao, lại có thị trường ổn định.

2. Về môi trường

Jatropha là cây lâu năm, phủ đất cực kỳ tốt, tuổi thọ 50 năm, sinh trưởng phát triển được ở hầu hết các loại đất xấu, nghèo kiệt, đất dốc, đất trơ sỏi đá, không cháy, gia súc không ăn. Bởi vậy cây Jatropha trồng trên các vùng đất dốc sẽ được coi là cây “lấp đầy” lỗ hổng sinh thái ở các vùng sinh thái xung yếu miền núi, sớm tạo ra thảm thực bì dày đặc chống xói mòn, chống cháy, nâng cao độ phì của đất. Không những vậy, Jatropha còn có thể trồng ở các vùng đất sa mạc hóa, bãi thải khai thác khoáng sản, góp phần phục hồi hệ sinh thái các vùng này. Vì vậy cây Jatropha được đánh giá là “vệ sĩ sinh thái”, tạo ra hiệu ứng to lớn về bảo vệ môi trường.

3. Bã sau khi ép dầu làm phân hữu cơ và thức ăn chăn nuôi

Sau khi ép dầu, bã khô dầu có hàm lượng N 4,14-4,78%, P2O5 0,5-0,66%, CaO 0,60-0,65%, MgO 0,17-0,21% được sử dụng làm phân hữu cơ rất tốt để bón cho các loại cây trồng, nhất là cho vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, vừa góp phần sản xuất sản phẩm sạch, vừa nâng cao độ phì của đất.

Trong thành phần hạt Jatropha có độc tố curcin, có thể gây tử vong cho người và gây hại cho vật nuôi. Phân tích 2 giống được sử dụng trong vườn giống của Trường Đại học Thành Tây, hàm lượng dinh dưỡng trong bã khô dầu: protein đạt 25,87-29,91%, xơ đạt 21,41-29,77%, tro đạt 4,86-5,11%, chất béo đạt 28,61-31,67%, sắt đạt 177,89-177,94 mg/kg và nhiều chất khoáng khác. Nếu khử hết độc tố thì bã khô dầu Jatropha trở thành một loại thức ăn giàu đạm cho các loài gia súc, gia cầm, tạo ra nguồn thức ăn chăn nuôi quý, góp phần giải quyết nhu cầu thức ăn công nghiệp sẽ thiếu hụt trầm trọng đối với ngành chăn nuôi nước nhà trong tương lai gần.

4. Để làm thuốc

Trong thành phần cây Jatropha, đã chiết xuất được những hợp chất chủ yếu như tecpen, flavon, coumarin, lipit, sterol và alkaloit. Nhiều bộ phận của cây này có thể chữa bệnh như lá, vỏ cây, hạt và rễ. Rễ trị tiêu viêm, cầm máu, trị ngứa; dầu của hạt có thể nhuận tràng; dịch nhựa trắng tiết ra từ vết thương của cành có thể trị viêm lợi, làm lành vết thương, chữa trị bệnh trĩ và mụn cơm; nước sắc từ lá dùng để chữa trị bệnh phong thấp, đau răng…

Trong cây Jatropha có nhiều thành phần độc tố, nhất là phytotoxin (curcin) trong hạt, nếu được nghiên cứu sâu hơn rất có thể tạo ra hợp chất mới về nguồn dược, từ đó độc tố thực vật có thể trở thành một loại tài nguyên về nguồn dược liệu mới.

 III. Một số kết quả nghiên cứu của Trường Đại học Thành Tây

Ngay từ khi chuẩn bị thành lập, các cán bộ khoa học của Trường đã đề xướng chương trình nghiên cứu về cây Jatropha và nhiên liệu sinh học, vừa để phục vụ yêu cầu giáo dục đào tạo của nhà trường, vừa góp phần phát triển kinh tế của đất nước.

Sau khi được thành lập, Trường đã xây dựng đề tài cấp nhà nước để nghiên cứu toàn diện về cây Jatropha, được Bộ KHCN và Bộ NN-PTNT tạo điều kiện giúp đỡ.

Trường đã xây dựng được 1 ha vườn giống, với các giống tốt nhất từ nước ngoài và thu gom các dòng thực liệu từ các vùng trong nước. Trường đã hợp tác với công ty Minh Sơn và Núi Đầu, trồng 150 ha Jatropha, trong đó có 30 ha ở Sơn La, 120 ha ở Lạng Sơn.

Trải qua một thời gian thực nghiệm ban đầu rút ra 1 số nhận xét sau:

– Cây Jatropha đang là cây bản địa của Việt Nam (trong đó có 1 số giống tốt nhập nội) sinh trưởng phát triển tốt ở các vùng đồi núi của Việt Nam, sống được ở đất xấu, độ dốc cao (Sơn La, Lạng Sơn), chịu được rét hại mùa đông vào đầu năm 2008 (xã Hữu Kiên, huyện Chi Lăng, Lạng Sơn).

– Giống Jatropha Ưu tuyển số 2 của Trung Quốc, năm đầu đạt năng suất 300 kg hạt/ha, 1 dòng có xuất xứ từ Nghệ An cho năng suất 2,3 kg/cây (tương đương 6,9 tấn/ha), có hàm lượng dầu cao, hàm lượng dinh dưỡng trong bã khô dầu cao hơn giống Trung Quốc. Kết quả phân tích hạt Jatropha của 2 giống này như sau:

Kết quả phân tích hạt Jatropha của giống TTJ của Việt Nam và giống Ưu tuyển số 2 của Trung Quốc

STT

Tên chỉ tiêu

Đơn vị tính

Giống TTJ của Việt Nam

Giống Ưu tuyển số 2 của Trung Quốc

Phương pháp thử

1

Tỷ lệ nhân/hạt

%

63,64

62,63

Cân trọng lượng

2

Hàm lượng dầu trong hạt cả vỏ (theo khô tuyệt đối)

%

41,60

39,27

5504-1991

TCVN5504-1991

3

Chỉ số axit (dầu)

mgKHO/1g dầu

5,44

5,81

TCVN 6127-1996

4

Chỉ số peroxyt (dầu)

MeqO2/kg dầu

0,57

0,53

TCVN 6121-1996

5

Chỉ số Iốt (dầu)

Mg I2/100g dầu

110,0

115,0

TCVN 6122-1996

6

Chỉ số xà phòng

mg KOH/1g dầu

179,30

185,7

TCVN 6126-1996

7

Tỷ trọng dầu (20oC)

g/cm3

0,9194

0,9200

TCPTN-10

Cơ quan phân tích: Viện Công nghiệp Thực phẩm (Hà Nội), 2008.

– Ngoài ra, còn có một số giống nhập từ Indonexia, Ấn Độ, Thái Lan, Malaixia, trong đó có giống phát triển sớm, sau trồng 3 tháng đã ra hoa, rất có triển vọng.

Hiện nay Trường đang hợp tác với 1 số tập đoàn nước ngoài (Hàn Quốc, Nhật, Malaixia…) để nghiên cứu và đầu tư sản xuất Jatropha và nhiên liệu sinh học ở Việt Nam.

…Loài người đang đứng trước những nguy cơ ngày càng trầm trọng hơn về an ninh lương thực, an ninh năng lượng và an ninh môi trường. Các nước đang dồn sức tìm kiếm nguồn năng lượng mới, trong đó có năng lượng tái tạo để góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và bảo vệ môi trường trước sức ép nhu cầu năng lượng thế giới tăng khoảng 2%/năm, mà nguồn năng lượng hóa thạch đang cạn kiệt và là thủ phạm tạo ra nguồn khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Các nước trên thế giới đi theo hai hướng phát triển nhiên liệu sinh học: ethanol nhiên liệu, được sản xuất chủ yếu từ ngô (Mỹ), mía đường (Brasil), sắn (Thái Lan)…, còn diesel sinh học sản xuất từ cải dầu, hướng dương (Châu Âu), cọ dầu (Đông Nam Á), dầu mỡ phế thải, Jatropha, tảo..v.v..

Nước ta đang nghiên cứu sản xuất Jatropha để sản xuất diesel sinh học. Jatropha đã có mặt ở Việt Nam từ vài trăm năm nay, đang được nghiên cứu để sử dụng làm cây nhiên liệu sinh học. Trong bối cảnh nước ta đã là thành viên của WTO, ngành nhiên liệu sinh học của Việt Nam phải phát triển thành một ngành kỹ nghệ sản xuất hàng hóa lớn theo hướng tập trung, chuyên canh, thâm canh, có đủ sức cạnh tranh và phát triển bền vững. Vì vậy phải nghiên cứu đầy đủ nhằm xác lập được căn cứ khoa học để phát triển lâu dài, không thể hành xử theo kiểu tự phát, ngẫu hứng.

(Còn nữa)

Chế Phẩm Sinh Học Trong Nuôi Trồng Thủy Sản – Tầm Quan Trọng Và Triển Vọng Phát Triển

Dịch bệnh là yếu tố kìm hãm sự phát triển của nuôi trồng thủy sản. Các phương pháp truyền thống không hiệu quả trong việc chống lại các dịch bệnh mới trong hệ thống nuôi công nghiệp. Vì vậy, các phương pháp thay thế rất cần được phát triển để duy trì một môi trường lành mạnh trong các hệ thống nuôi trồng thủy sản, nhờ đó có thể đảm bảo sức khỏe cho vật nuôi. Một trong các phương pháp đó là sử dụng chế phẩm sinh học nhằm kiểm soát mầm bệnh, tạo ra các sản phẩm sạch và hướng tới một ngành nuôi trồng thủy sản bền vững.

Chế phẩm sinh học và cơ chế hoạt động

Thuật ngữ chế phẩm sinh học (probiotics) thường được định nghĩa là các vi khuẩn có lợi cho vật chủ. Theo Fuller (1989), chế phẩm sinh học là sự bổ sung một loại thức ăn vi sinh vật sống có tác dụng có lợi cho vật chủ qua việc cải tiến sự cân bằng vi sinh hệ trong đường ruột của vật chủ. Trong nuôi trồng thủy sản, chế phẩm sinh học thường được sử dụng như một phương tiện kiểm soát dịch bệnh, bổ sung các chất kháng khuẩn,…, tuy nhiên, việc hiểu cơ chế hoạt động của chế phẩm sinh học còn rất hạn chế. Theo một vài công trình nghiên cứu gần đây chế phẩm sinh học được hoạt động theo một số khía cạnh sau:

Cạnh tranh loại trừ vi khuẩn gây bệnh

Chế phẩm sinh học có khả năng bám dính và xâm chiếm bề mặt niêm mạc ruột, do vậy tạo ra cơ chế bảo vệ chống lại mầm bệnh qua việc cạnh tranh điểm bám và thức ăn.

Tạo ra các hoạt chất ức chế

Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh các dòng chế phẩm sinh học sản sinh ra các chất diệt khuẩn chống lại các mầm bệnh thông thường trên cá như Enterococcus durans, Escherichia coli, Micrococcus luteus and Pseudomonas aeroginosa.

Tăng cường hệ miễn dịch của vật nuôi

Các chế phẩm sinh học có thể kích thích hệ miễn dịch của vật nuôi. Các chất kích thích miễn dịch khác nhau tùy theo môi trường và cách sử dụng. Các chất dẫn xuất nhất định như polysaccharides, lipoproteins, nucleotides and ß-glucans có khả năng làm tăng bạch huyết cầu bằng cách kích hoạt đại thực bào. Việc sử dụng Bacillus sp đã được chứng minh có hiệu quả trong việc phòng bệnh trên vật nuôi bằng cách kích hoạt hệ miễn dịch dịch và hệ miễn dịch tế bào trong nuôi tôm sú (Rengpipat et al, 2000).

Tầm quan trọng của chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản

Tăng cường sức khỏe và ngăn chặn mầm bệnh

Trong một thời gian dài, các chất kháng sinh đã được sử dụng để ngăn ngặn bệnh dịch trong nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh gây ra nhiều vấn đề như dư thừa chất kháng sinh trong các sản phẩm thủy sản, tạo ra các cơ chế kháng khuẩn cũng như làm mất cân bằng các men tiêu hóa trong đường ruột, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của vật nuôi. Hơn nữa, nhu cầu của con người đối với các sản phẩm thủy sản sạch và an toàn trên thế giới ngày càng cao. Do vậy, việc sử dụng chế phẩm sinh học là một phương pháp hữu hiệu trong việc ngăn chặn mầm bệnh và kiểm soát dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản.

Chế phẩm sinh học có khả năng sản sinh ra các chất hóa học có tác dụng diệt các vi khuẩn gây bệnh bám trên thành ruột của vật chủ, do vậy có thể coi chế phẩm sinh học là một rào cản hữu hiệu ngăn chặn sự phát triển của mầm bệnh.

Ngoài ra, chế phẩm sinh học hay các “vi khuẩn có lợi” còn có khả năng cạnh tranh vị trí bám và thức ăn trong thành ruột với các vi sinh vật gây bệnh, không cho phép các vi sinh vật này bám vào cơ thể vật nuôi, nhờ vậy giúp ngăn ngừa dịch bệnh, đảm bảo sức khỏe cho vật nuôi.

Cải thiện hệ tiêu hóa

Chế phẩm sinh học là nguồn dinh dưỡng và enzyme cho bộ máy tiêu hóa của vật nuôi. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chế phẩm sinh học có ảnh hưởng tích cực đến quá trình tiêu hóa của các vật nuôi bởi vì các dòng chế phẩm sinh học sản xuất ra các en-zim ngoại bào như as protease, amilaza, lipaza và cung cấp các dưỡng chất phát triển cần thiết như vitamin, axit béo, axit amin,… Trong nuôi cá, các vi khuẩn vi sinh như Bacteroides và Clostridium sp đã cung cấp dinh dưỡng cho cá, đặc biệt là cung cấp các axit béo và vitamin. Ngoài ra, một số vi khuẩn có thể tham gia vào quá trình tiêu hóa của động vật hai mảnh vỏ bằng cách sản xuất ra các enzyme ngoại bào như protease, amilaza, lipaza và cung cấp dưỡng chất phát triển cần thiết như vitamin, axit béo, axit amin.

Cải thiện chất lượng nước

Chế phẩm sinh học còn giúp ngăn ngừa và giảm thiểu ô nhiễm trong ao nuôi. Các vi sinh vật có lợi giúp phân hủy các chất hữu cơ, góp phần làm giảm thiểu việc hình thành các lớp bùn và chất cặn bã, nhờ vậy chất lượng nước trong ao nuôi được cải thiện, làm tăng số lượng của động vật phù du,  giảm mùi hôi, từ đó tăng sản lượng nuôi trồng thủy sản. Hơn nữa, sử dụng chế phẩm sinh học sẽ góp phần làm giảm việc sử dụng các hóa chất, kháng sinh trong phòng và trị bệnh trong nuôi trồng thủy sản, đảm bảo sản xuất sản phẩm an toàn cho sức khỏe con người và góp phần phát triển ngành nuôi trồng thủy sản bền vững.

Hiệu quả của chế phẩm sinh học trong sinh sản của các loài nuôi

Trong nuôi trồng thủy sản, các loài nuôi đòi hỏi một chế độ dinh dưỡng cao, do vậy, khả năng sinh sản phụ thuộc vào nồng độ lipid, protein, axit béo, vitamin C, vitamin E phù hợp. Hơn nữa, mối quan hệ giữa các thành phần này ảnh hưởng đến quá trình trình sinh sản như rụng trứng, thụ tinh, sinh sản và sự phát triển của ấu trùng. Thực tế, có nhiều trang trại cải thiện dinh dưỡng cho đàn cá bố mẹ bằng cánh cho chúng ăn các phụ phẩm thủy sản như mực, trai, nhuyễn thể hai mảnh vỏ nhỏ hay phụ phẩm kết hợp với thức ăn công nghiệp. Việc sử dụng các sản phẩm thủy sản chưa qua chế biến này thường không cung cấp lượng dinh dưỡng cần thiết cho cá bố mẹ và làm tăng nguy cơ lây bệnh sang cá bố mẹ và cá con như các ký sinh trùng, vi khuẩn và vi rút. Vì vậy, chế phẩm sinh học được thêm vào thức ăn hay thả xuống ao để ngăn chặn nguy cơ lây bệnh và ảnh hưởng tích cực đến sinh sản của loài nuôi.

Hạn chế của việc sử dụng chế phẩm sinh học

Việc sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản nhằm hạn chế tối đa khả năng sử dụng kháng sinh trong việc phòng và trị bệnh thủy sản là khuynh hướng đúng, nhằm tạo ra các sản phẩm an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng và hướng đến một ngành nuôi trồng thủy sản bền vững. Tuy nhiên, chế phẩm sinh học là một công cụ để phòng ngừa dịch bệnh, không phải để trị bệnh. Chúng có thể có hiệu quả tốt khi được áp dụng trong hệ thống trao đổi nước tĩnh và chỉ ngay sau khi nước được khử trùng. Trong quá trình áp dụng chế phẩm sinh học, không nên dùng các hóa chất hay thuốc để điều trị các bệnh khác bởi vì chế phẩm sinh học dễ dàng bị các hóa chất hay thuốc phá hủy, do vậy các vi khuẩn có ích không phát triển được. Hiện nay, hiệu quả việc sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản chỉ được khẳng định đối với các trường hợp sử dụng trong điều kiện môi trường được kiểm soát tốt. Trường hợp ở các ao nuôi ngoài trời, điều kiện môi trường có biến động lớn thì hiệu quả sử dụng của chế phẩm sinh học chưa được chứng minh.

Triển vọng tương lai

Mặc dù các nghiên cứu cho thấy chế phẩm sinh học có triển vọng lớn cho ngành nuôi trồng thủy sản, tuy nhiên việc sử dụng hiệu quả chế phẩm sinh học còn là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Nhiều câu hỏi vẫn chưa có lời giải xoay quanh việc sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản. Liệu chế phẩm sinh học là thức ăn hay chúng cạnh tranh với các vi khuẩn có hại? Liệu chế phẩm sinh học có trở thành mầm bệnh không? Hơn nữa, việc áp dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản có thể làm tăng chi phí sản xuất thủy sản.

Tuy nhiên, xét trong dài hạn, nếu được áp dụng thành công, lợi ích mà chế phẩm sinh học đem lại là rất lớn. Nó không những giúp tăng sản lượng thủy sản mà quan trọng hơn là giúp phát triển một ngành nuôi trồng thủy sản bền vững, sản xuất ra các sản phẩm thủy sản sạch và an toàn cho người tiêu dùng. Ngoài ra, do một số loại kháng sinh dùng trong nuôi trồng thủy sản bị cấm sử dụng nên việc ứng dụng chế phẩm sinh học có thể ngày càng được các nhà sản xuất thủy sản quan tâm hơn.

Theo chúng tôi

Dùng Chế Phẩm Sinh Học Cho Tôm: Hướng Phát Triển Bền Vững

1. Nuôi tôm cho sản lượng cao, an toàn

Lâu nay, nông dân Nguyễn Xuân Cần (thôn Kỳ Trần, xã Bình Hải, Thăng Bình) nuôi tôm không nhiều nhưng được những hộ khác khâm phục vì các vụ nuôi luôn thành công. Ở vụ vừa qua, với 6 ao nuôi có tổng diện tích 18.000m2, ông Cần thu hoạch 10 tấn tôm, bán được 1,6 tỷ đồng, qua đó thu lợi 1 tỷ đồng. Bí quyết thành công của nông dân này là ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm. “Sử dụng hóa chất và kháng sinh không phải là giải pháp nuôi tôm bền vững vì gây hại môi trường và sản phẩm không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Thay vào đó tôi sử dụng chế phẩm sinh học EM chuối – sản phẩm độc đáo xuất xứ từ Nhật Bản” – ông Cần chia sẻ. Chế biến EM chuối theo cách ông Cần hướng dẫn cũng khá đơn giản: xay nhuyễn 1kg chuối tây đã lột vỏ rồi khuấy đều với 1 lít EM trong bình có nắp đậy chặt. Sau 24 giờ có thể sử dụng 1 lít chế phẩm sinh học EM chuối trộn với 10kg thức ăn nuôi tôm. Nguyên tắc sử dụng chế phẩm sinh học của ông Cần là sử dụng đúng liều lượng, thời gian sử dụng vào buổi sáng, khoảng 8 – 10 giờ, lúc nắng ấm là phù hợp nhất vì hàm lượng ô xy hòa tan cao. Chế phẩm EM chuối có tác dụng tăng cường sức đề kháng và khả năng chống chịu của tôm nuôi khi có các điều kiện ngoại cảnh bất lợi, tăng cường khả năng tiêu hóa và hấp thụ thức ăn cho tôm. Bên cạnh đó, EM chuối còn giúp tiêu diệt vi sinh vật có hại, hạn chế ô nhiễm môi trường.

Nuôi tôm ở vùng triều có nhiều hạn chế về nguồn nước, nhưng cũng nhờ sử dụng chế phẩm sinh học, hộ các ông Nguyễn Nam, Đỗ Văn Lành (khối phố Phú Sơn, phường An Phú, chúng tôi Kỳ) vẫn thu được sản lượng lớn, lãi hàng trăm triệu đồng sau mỗi vụ nuôi. Những nông dân này cho biết, sử dụng chế phẩm sinh học là điều kiện cần thiết và an toàn giúp tôm sinh trưởng tốt. Chế phẩm sinh học giúp tôm nuôi có tỷ lệ sống cao, tăng trưởng nhanh hơn so với sử dụng kháng sinh hay hóa chất. Mặt khác, sử dụng chế phẩm sinh học giúp phân hủy tốt các chất hữu cơ, làm giảm lớp bùn nhớt ở ao vùng triều, giảm mùi hôi của nước trong ao. Ông Nguyễn Nam cho biết, hộ ông sử dụng chế phẩm sinh học trong toàn bộ quá trình nuôi tôm, từ giai đoạn cải tạo ao nuôi đến khi thu hoạch. “Ban đầu tôi nuôi tôm thẻ chân trắng bằng hình thức quảng canh vì vùng triều ven sông không có lợi thế về quản lý môi trường nuôi tôm như trên cát. Sau đó, tôi đã chuyển sang thâm canh nhờ sử dụng chế phẩm sinh học có tính tương thích cao nên nuôi tôm rất trúng vụ” – ông Nam nói. Ông Đỗ Văn Lành cho biết thêm, thời tiết càng khắc nghiệt nông dân càng nên dùng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm. Như chuẩn bị cho vụ nuôi mới năm 2018, ông sẽ dùng chế phẩm sinh học để xử lý bùn đáy hồ bằng cách pha với nước phun tiêu độc trong vòng 10 ngày. Tùy theo từng vụ nuôi, ông dùng các loại chế phẩm sinh học khác nhau phù hợp, được kiểm chứng kỹ càng.

2. Hiệu quả bảo quản

Mới đây, cơ sở thu mua tôm thương phẩm Thúy Ty (xã Tam Anh Bắc, Núi Thành) tiến hành thu mua tôm thẻ chân trắng ở ao nuôi của bà Nguyễn Thị Luận (xã Tam Hải, Núi Thành). Thay vì chỉ dùng đá ướp lạnh như mọi khi, doanh nghiệp này đã sử dụng chế phẩm sinh học gồm 50% dịch chiết gừng trong cồn 50%, cùng 50% dịch chiết riềng trong cồn 60% và các phụ gia an toàn là nisin nồng độ 200ppm, chitosan có nồng độ 0,5% để bảo quản sản phẩm theo tỷ lệ 1 lít chế phẩm sinh học pha với 2 lít nước biển và 7kg nước đá để bảo quản cho 10kg tôm thương phẩm. Kết quả là tôm không có điểm đen nào trên thân; không bị rách vỏ; thịt tôm có màu sắc đặc trưng, săn chắc; đầu tôm dính chặt vào thân và không dập nát. Cơ sở Thúy Ty cho biết, nếu bảo quản bằng nước đá đơn thuần, chỉ sau 2 ngày tôm sẽ suy giảm chất lượng, giá bán ra bị giảm đến 30%. Trong khi đó, bảo quản bằng chế phẩm sinh học, thời gian giữ chất lượng sản phẩm tôm lâu hơn.

Ngành thủy sản đã chứng kiến nhiều mối nguy trong hội nhập quốc tế thời gian qua khi có nhiều lô hàng chế biến tôm xuất khẩu bị trả về nước do dư lượng kháng sinh lớn; hay EU phạt “thẻ vàng” đối với hải sản xuất khẩu. Sử dụng chế phẩm sinh học để khống chế tác hại của tình trạng lạm dụng kháng sinh trong nuôi tôm là rất cần thiết, không chỉ đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm mà còn hạn chế sự gia tăng bệnh và dịch bệnh do kháng sinh khiến môi trường bị biến động. Bà Phạm Thị Hoàng Tâm – Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Quảng Nam cho biết, mặc dù chế phẩm sinh học chưa được sử dụng nhiều và bài bản trong nuôi tôm cũng như bảo quản tôm thương phẩm, nhưng những thành quả bước đầu của một số hộ nuôi tôm, doanh nghiệp ứng dụng đã cho thấy dấu hiệu đáng mừng, có thể hướng đến nhân rộng để sản xuất bền vững. Điều đó cho thấy ý thức của người nuôi tôm đang dần nâng cao, và họ cũng biết rõ rằng sử dụng chế phẩm sinh học mang tính phòng ngừa dịch bệnh cho tôm rất tốt. Và để phát huy tác dụng của chế phẩm sinh học, người nuôi tôm cũng đã chủ động diệt khuẩn tốt trong ao nuôi tôm, đảm bảo môi trường nước ổn định.

Theo Nguyễn Quang Việt, Báo Quảng Nam

Quy Trình Sản Xuất Chế Phẩm Sinh Học Dùng Để Phòng Trừ Và Hạn Chế Bệnh Phát Sáng Trong Nuôi Trồng Thủy Sản

           Nhóm virus Vibrio sp. là tác nhân gây bện ở một số đối tượng nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là những dạng nhiễm vi khuẩn phát sáng thường thấy ở các trại sản xuất hoặc ươm thủy sản. Thái Lan có quy trình sản xuất chế phẩm sinh học Super biotech, bao gồm các công đoạn: nhân giống vi khuẩn Bacillus sp. cấp 1,2 chuyển sang môi trường lỏng, đông khô hoặc chuyển sang môi trường bột có chất mang. Tuy nhiên, do chủng vi khuẩn Bacillus sp. này không phù hợp với điều kiện Việt Nam do điều kiện sinh thái khác khau, biến động nhiệt độ trong vùng nuôi, dẫn đến hiệu quả sử dụng chế phẩm không cao.

 Tôm bị bệnh phát sáng. Ảnh: st.

          Sáng chế đề xuất chế phẩm sinh học dùng để phòng trừ và hạn chế bệnh phát sáng trong nuôi trồng thủy sản phù hợp với điều kiện Việt Nam. Trong đó, giống vi sinh vật sử dụng được chọn lựa từ các chủng vi sinh vật bản địa, đặc thù có khả năng kháng lại sự phát triển và lây lan của các Vibrio sp. Chúng là chủng vi khuẩn lactic (106) và chủng Bacillus (BT) phân lập được từ các đầm nuôi trồng thủy sản, có khả năng ức chế vi khuẩn gây bệnh V.parhaemolytivis, V.cholera và V.havery… Các chủng phân lập được này có khả năng sinh kháng sinh phổ rộng trong các điều kiện sinh thái khác nhau, đồng thời có khả năng phân giải mạnh các chất hữu cơ dư thừa trong ao nuôi.

          Sử dụng sản phẩm nêu trên giúp cho người nuôi trồng thủy sản phòng ngừa được bệnh và hạn chế được sự lây lan của bệnh. Sản phẩm thân thiện với môi trường và không gây tác dụng phụ, đảm bảo cho quá trình nuôi trồng thủy sản sạch và an toàn.

Mọi ý kiến thắc mắc, quan tâm của độc giả về sáng chế/GPCN nêu trên xin liên lạc với: 

Viện Nghiên cứu sáng chế và Khai thác công nghệ – Bộ Khoa học và Công nghệ

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phát Triển Cây Jatropha Để Sản Xuât Diesel Sinh Học Ở Vn trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!