Đề Xuất 5/2023 # Phân Gà Có Tốt Không? Vai Trò Của Phân Gà Đối Với Cây Trồng # Top 6 Like | Vitagrowthheight.com

Đề Xuất 5/2023 # Phân Gà Có Tốt Không? Vai Trò Của Phân Gà Đối Với Cây Trồng # Top 6 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phân Gà Có Tốt Không? Vai Trò Của Phân Gà Đối Với Cây Trồng mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Phân gà thuộc nhóm phân hữu cơ, sử dụng dưới dạng đã được ủ hoai mục hoặc thay thế bằng các thành phẩm đóng gói đã qua xử lý. Vậy loại phân này có tốt không? Nó cung cấp dinh dưỡng gì cho đất và đóng vai trò như thế nào đối với cây trồng. Mời bà con cũng theo dõi chi tiết trong bài viết sau đây:

Phân gà không những chứa hàm lượng hữu cơ cao mà nó còn chứa hàm lượng N-P-K vượt trội hơn các loại phân dê, phân trâu bò, phân trùn quế…. Đặc biệt phân gà giàu Kali và khoáng chất nên rất tốt khi dùng cho các loại cây ăn trái. Do đó, phân gà được xem là loại phân có chất lượng cao hơn hẳn các loại phân chuồng khác

Tuy nhiên, phân gà thuộc loại phân chuồng nên cũng tồn tại những nhược điểm của nó:

Làm vàng lá, khó hấp thụ: Phân gà thuộc loại phân chuồng nóng nhất nên nếu không được ủ hoai sẽ gây hại cho cây. Tác hại có thể là làm cây nhanh chóng vàng lá, dinh dưỡng trong phân gà khó được hấp thụ.

Gây bệnh cho cây trồng: vì phân gà có chứa các loại nấm bệnh, tuyến trùng nên nếu không được xử lý đúng kỹ thuật sẽ gây nên nhiều bệnh cho cây trồng.

Phá hủy bộ rễ của cây trồng: bộ phận đầu tiên có thể chịu ảnh hưởng nhất từ các mầm bệnh có trong phân gà là rễ cây. Các tuyến trùng, vi sinh vật có hại, nấm bệnh… nếu không được xử lý triệt để sẽ tấn công bám vào rễ, sinh sôi và phát triển mạnh. Rồi nhanh chóng tiêu diệt bộ rễ làm cây chết dần.

Đặc biệt, nếu kỹ thuật xử lý phân chuồng bằng cách ủ truyền thống thì chắc chắn có khả năng để lại nhiều nấm bệnh gây hại cho cây trồng.

Kết luận rằng: Phân gà xếp hàng đầu về khả năng cung cấp dinh dưỡng hữu cơ cho cây trồng và đất nhưng chỉ nên sử dụng khi chắc chắn được xử lý kỹ, tiêu diệt hết các mầm nấm, tuyến trùng, vi sinh vật gây hại cây. Có như vậy thì việc dùng phân gà mới mang lại hiệu quả và năng suất cao cho cây trồng.

VAI TRÒ CỦA PHÂN GÀ ĐỐI VỚI CÂY TRỒNG

Với những giá trị dinh dưỡng cao mà phân gà cung cấp cho đất và cây trồng, nên nó có rất nhiều lợi ích:

+ Cải tạo đất: giảm mặn, giảm chua, giữ ẩm tốt

+ Cung cấp hàm lượng hữu cơ, bổ sung các vi sinh vật có lợi cho đất làm tăng độ phì nhiêu của đất

+ Tăng sức đề kháng cho cây, giảm một số bệnh cho cây trồng: xoắn lá, trùng đọt, vàng lá

+ Tăng hương vị mà mùi cho các loại cây rau, cây ăn quả.

+ Tăng khả năng thụ phấn, đậu trái

+ Tăng số lượng hạt và chất lượng hạt khi thu hoạch

+ Giúp hạt nẩy mầm nhanh, cây non phát triển mạnh

+ Giúp cây cứng cáp, tái tạo rễ nhanh

+ Hạn chế các bệnh trên rễ: trùng rễ, sưng rễ, lỡ cở rễ

+ Tạo điều kiện thuận lợi cho cây hấp thụ các chất vô cơ

Qua đây bà con có thể hiểu hơn về tác dụng và vai trò của phân gà trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây. Nếu muốn sử dụng loại phân này hiệu quả, bà con chú ý xử lý kỹ để tiêu diệt hết các mầm bệnh có hại hoặc có thể thay thế bằng những thành phẩm đã được chế biến bằng các phương pháp sản xuất phân bón hiện đại.

Tham khảo các loại phân gà nhập khẩu Nhật Bản

Vai Trò Của Phân Hóa Học Đối Với Cây Trồng

Vai trò của phân hóa học đối với cây trồng

1. Vai trò của phân hoá học đối với năng suất lúa ở Việt Nam và một số nước trên thế giới Cây trồng cũng như con gia súc, tôm, cá… muốn sinh trưởng tốt, khoẻ mạnh tăng trọng nhanh và cho năng suất cao cần phải được nuôi dưỡng trong điều kiện đầy đủ thức ăn, có đủ các chất bổ dưỡng theo thành phần và tỷ lệ phù hợp. Trẻ con tuy lúc mới sinh có cơ thể to, nặng cân nhưng nếu sữa mẹ kém chất, nuôi nấng thiếu khoa học thì cũng có thể trở nên còi cọc. Đối với cây trồng, nguồn dinh dưỡng đó chính là các chất khoáng có chứa trong đất, trong phân hoá học (còn gọi là phân khoáng) và các loại phân khác. Trong các loại phân thì phân hoá học có chứa nồng độ các chất khoáng cao hơn cả. Từ ngày có kỹ nghệ phân hoá học ra đời, năng suất cây trồng trên thế giới cũng như ở nước ta ngày càng được tăng lên rõ rệt. Ví dụ chỉ tính từ năm 1960 đến 1997, năng suất và sản lượng lúa trên thế giới đã thay đổi theo tỷ lệ thuận với số lượng phân hoá học đã được sử dụng (NPK, trung, vi lượng ) bón cho lúa. Trong những thập kỷ cuối thế kỷ 20 (từ 1960-1997), diện tích trồng lúa toàn thế giới chỉ tăng có 23,6% nhưng năng suất lúa đã tăng 108% và sản lượng lúa tăng lên 164,4%, tương ứng với mức sử dụng phân hoá học tăng lên là 242%. Nhờ vậy đã góp phần vào việc ổn định lương thực trên thế giới. Ở nước ta, do chiến tranh kéo dài, công nghiệp sản xuất phân hoá học phát triển rất chậm và thiết bị còn rất lạc hậu. Chỉ đến sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng, nông dân mới có điều kiện sử dụng phân hoá học bón cho cây trồng ngày một nhiều hơn. Ví dụ năm 1974/1976 bình quân lượng phân hoá học (NPK) bón cho 1 ha canh tác mới chỉ có 43,3 kg/ha. Năm 1993-1994 sau khi cánh cửa sản xuất nông nghiệp được mở rộng, lượng phân hoá học do nông dân sử dụng đã tăng lên đến 279 kg/ha canh tác. Số lượng phân hoá học bón vào đã trở thành nhân tố quyết định làm tăng năng suất và sản lượng cây trồng lên rất rõ, đặc biệt là cây lúa. Rõ ràng năng suất cây trồng phụ thuộc rất chặt chẽ với lượng phân hoá học bón vào. Tuy nhiên không phải cứ bón nhiều phân hoá học thì năng suất cây trồng cứ tăng lên mãi. Cây cối cũng như con người phải được nuôi đủ chất, đúng cách và cân bằng dinh dưỡng thì cây mới tốt, năng suất mới cao và ổn định được. Vì vậy phân chuyên dùng ra đời là để giúp người trồng cây sử dụng phân bón được tiện lợi hơn. 2. Tình hình sử dụng phân hoá học (phân khoáng) của một số nước trên thế giới và khu vực Đông Nam Á Từ lâu nông dân ta đã có câu “người đẹp nhờ lụa, lúa tốt nhờ phân”. Phân bón đã là một trong những nhân tố chính làm tăng năng suất cây trồng để nuôi sống nhân loại trên thế giới. Tuy nhiên, nhiều nước không có công nghệ sản xuất phân bón, nhưng ngoại tệ lại có hạn nên việc sử dụng phân khoáng ở các nước có sự chênh lệch khá lớn. Sự chênh lệch này không phải do tính chất đất đai khác nhau quyết định mà chủ yếu là do điều kiện tài chánh cũng như trình độ hiểu biết về khoa học dinh dưỡng cho cây trồng quyết định. Còn trong các nước phát triển mức độ sử dụng phân khoáng khác nhau là do họ sử dụng cây trồng khác nhau, điều kiện khí hậu khác nhau, cơ cấu cây trồng khác nhau và họ cũng sử dụng các chủng loại phân khác nhau để bón bổ sung. Các số liệu khảo sát cho thấy, bình quân các nước châu Á sử dụng phân khoáng nhiều hơn bình quân thế giới. Tuy nhiên, Ấn Độ (nước có khí hậu nóng) lại dùng phân khoáng ít hơn bình quân toàn châu Á. Trong lúc đó Trung Quốc và Nhật lại sử dụng phân khoáng nhiều hơn bình quân toàn châu Á. Hà Lan là nước sử dụng phân khoáng nhiều nhất. Tuy nhiên lượng phân chủ yếu bón nhiều cho đồng cỏ, rau và hoa để thu sản lượng chất xanh cao. Việt Nam được coi là nước sử dụng nhiều phân khoáng trong số các nước ở Đông Nam Á, số liệu tham khảo năm 1999 như sau: – Việt Nam: bình quân 241,82 kg NPK/ha – Malaysia: bình quân 192,60 – Thái Lan: bình quân 95,83 – Philippin: bình quân 65,62 – Indonesia: bình quân 63,0 – Myanma: bình quân 14,93 – Lào: bình quân 4,50 – Campuchia: bình quân 1,49 Theo số liệu ghi nhận được ở trên cho thấy Campuchia, Lào và Myanma sử dụng phân khoáng ít nhất, đặc biệt là Campuchia. Có thể đó là thị trường xuất khẩu phân bón của Việt Nam khá thuận lợi, nếu Việt Nam góp phần nâng cao kiến thức sử dụng phân bón cho họ có kết quả. 3. Nhu cầu phân bón đối với cây trồng của Việt Nam đến năm 2010 Tính nhu cầu phân bón cho cây trồng là dựa trên cơ sở đặc điểm của đất đai, đặc điểm của cây trồng để tính số lượng phân cần cung cấp làm cho cây trồng có thể đạt được năng suất tối ưu (năng suất cao nhưng hiệu quả kinh tế cũng cao). Cho đến năm 2010, ước tính tổng diện tích gieo trồng ở nước ta vào khoảng 12.285.500 ha, trong đó cây có thời gian sinh trưởng hàng năm là 9.855.500 ha và cây lâu năm khoảng 2.431.000 ha (Theo số liệu của Vũ Năng Dũng, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, 2002). Để thoả mãn nhu cầu phân bón cho các loại cây trồng trên các diện tích này, đến năm 2010 ta cần có 2.100.000 tấn phân Urê, 300.000 tấn phân DAP, 3.000.000 tấn phân NPK các loại, 1.400.000 tấn phân lân dạng super và nung chảy và 400.000 tấn phân Kali (Nguyễn Văn Bộ, 2002). Dự kiến cho đến thời gian ấy ta có thể sản xuất được khoảng 1.600.000 tấn phân Urê, 300.000 tấn phân DAP, 3.000.000 tấn phân NPK và 1.400.000 tấn phân lân các loại. Số phân đạm và DAP sản xuất được là nhờ vào kế hoạch nâng cấp nhà máy phân đạm Bắc Giang, xây dựng 2 cụm chế biến phân đạm ở Bà Rịa-Vũng Tàu và ở Cà Mau mà có. Nếu được như vậy lúc đó ta chỉ còn phải nhập thêm khoảng 500.000 tấn Urê và 300.000 tấn phân Kali nữa là tạm đủ. Chỉ còn khoảng 6 năm nữa là đến năm 2010, tổng khối lượng phân các loại cần có là 7,1 triệu tấn, một khối lượng phân khá lớn, trong lúc đó, hiện nay (năm 2003) ta mới sản xuất được khoảng 1,5 triệu tấn phân đạm và lân. Còn số lượng 1,2 triệu tấn phân NPK có được là nhờ vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập. Năm 2002, cả nước nhập khẩu 2.833.907 tấn phân các loại (Urê, DAP, Kali, sunphát đạm). Nếu tính cả số phân nhập bằng con đường tiểu ngạch thì năm 2002 số lượng phân nhập có khoảng 3 triệu tấn, nếu cộng thêm 1,5 triệu tấn sản xuất trong nước thì vẫn còn cần thêm 2,6 triệu tấn phân các loại nữa mới đáp ứng được yêu cầu sản xuất nông nghiệp. Công ty Phân bón Bình Điền đang chuẩn bị xây dựng thêm 1 nhà máy sản xuất phân bón ở tỉnh Long An với công suất 600.000 tấn phân NPK/năm, lúc đó Công ty có thể cung cấp được khoảng 1/3 lượng phân NPK theo yêu cầu đặt ra. Như vậy cho đến nay, số lượng phân hoá học dùng cho sản xuất nông nghiệp phần lớn là dựa vào nhập khẩu. Nếu việc nâng cấp nhà máy phân đạm Bắc Giang cũng như việc xây dựng 2 cụm chế biến phân đạm ở Bà Rịa-Vũng Tàu và Cà Mau thực hiện đúng theo kế hoạch thì đến năm 2010 ta chỉ còn nhập khối lượng phân không nhiều lắm. Ngược lại, nếu kế hoạch trên có trở ngại thì việc tiếp tục nhập phân hoá học với khối lượng lớn là điều tất yếu. Tuy nhiên để việc sử dụng phân bón có hiệu quả, không có dư lượng đạm quá mức cho phép, không gây ô nhiễm môi trường thì ngay bây giờ ta phải trang bị cho người sản xuất những kiến thức khoa học cần thiết về tính chất 2 mặt của phân bón, biết được nhu cầu phân bón của từng loại cây, từng giai đoạn sinh trưởng của cây trên từng loại đất, từng mùa vụ để họ từ quản lý lấy nguồn tài nguyên quí giá của họ mới có hiệu quả được.

Phân Loại Phân Bón Và Vai Trò Đối Với Cây Trồng

Phân bón là sản phẩm có chức năng cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng hoặc có tác dụng cải tạo đất, trong thành phần chứa một hoặc nhiều yếu tố dinh dưỡng vô cơ đa lượng, trung lượng, vi lượng, đất hiếm, hữu cơ, axit amin, vitamin, axit humic, axit fulvic, vi sinh vật có ích, có một hoặc nhiều: chất giữ ẩm, chất hỗ trợ tăng hiệu suất sử dụng phân bón, chất điều hoà sinh trưởng thực vật, chất phụ gia, yếu tố hạn chế sử dụng.

gồm có Đạm ký hiệu là N (tính bằng N tổng số); Lân ký hiệu là P (tính bằng PYếu tố dinh dưỡng đa lượng : 2O 5 hữu hiệu) và Kali ký hiệu là K (tính bằng K 2 O hữu hiệu) dạng dễ tiêu cây trồng có thể dễ dàng hấp thu được.

: gồm có Can xi (được tính bằng Ca hoặc CaO), Magiê (được tính bằng Mg hoặc MgO), Lưu huỳnh (được tính bằng S) và Silíc (được tính bằng Si hoặc SiOYếu tố dinh dưỡng trung lượng 2 hoà tan) dạng dễ tiêu cây trồng có thể dễ dàng hấp thu được.

Bao gồm các thành phần: chất hữu cơ, axit amin, vitamin, axit humic, axit fulvic, …

Bao gồm các Vi sinh vật có lợi như VSV cố định đạm, phân giải lân, phân giải xenlulo…

Là các kim loại nặng gồm: Asen (As), Cadimi (Cd), Chì (Pb), Thuỷ ngân (Hg), Ti tan (Ti) Crôm (Cr) hoặc các vi khuẩn gây bệnh gồm: vi khuẩn E.coli, Salmonella hoặc các chất độc hại khác như: biuret, axit tự do với hàm lượng cho phép được quy định tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.

Ngoài ra, trong phân bón còn có chứa chất giữ ẩm, chất hỗ trợ tăng hiệu suất sử dụng phân bón, chất điều hoà sinh trưởng thực vật, chất phụ gia…

: là loại trong thành phần chỉ chứa một yếu tố dinh dưỡng đa lượng N hoặc P 2O 5 hữu hiệu hoặc K 2 O hữu hiệu.

Một số loại phân bón phổ biến và vai trò của phân bón ?

Trên thị trường phân bón hiện nay, thành phần cũng như tên gọi các loại phân bón rất đa dạng. Bao gồm một số loại sau:

là loại phân có tỉ lệ N cao nhất chứa 44-48% N nguyên chất. Trên thị trường có bán 2 loại phân urê có chất lượng giống nhau: Loại tinh thể màu trắng, hạt tròn, dễ tan trong nước, có nhược điểm hút ẩm mạnh. Loại có dạng viên, nhỏ như trứng cá. Loại này có thêm chất chống ẩm nên dễ bảo quản, vận chuyển nên được dùng nhiều trong nông nghiệp. Phân urê có khả năng thích ứng với nhiều loại đất và cây trồng khác nhau, thường được dùng để bón thúc.

có chứa 33-35% N, có dạng tinh thể muối kết tinh có màu vàng xám, dễ chảy nước, dễ tan trong nước, dễ vón cục, khó sử dụng và bảo quản. Là loại phân sinh lý chua, nhưng có thể bón cho nhiều loại cây trồng trên nhiều loại đất khác nhau.

còn gọi là phân SA, chứa 20-21% N, 39% S. Có dạng tinh thể, mịn, màu trắng ngà hoặc xanh xám, có mùi nước tiểu, vị mặn và hơi chua nên nhiều nơi gọi là phân muối diêm. Dễ tan trong nước, không vón cục, thường ở trạng thái tơi rời, dễ bảo quản, dễ sử dụng. Dùng để bón thúc cho tất cả các loại cây trồng trên nhiều loại đất khác nhau trừ đất bị phèn, bị chua.

chứa 24-25% N. Có dạng tinh thể mịn, màu trắng hoặc vàng ngà, dễ tan trong nước, ít hút ẩm, không bị vón cục. Là loại phân sinh lý chua, nên bón kết hợp với lân và các loại phân bón khác. Ở vùng khô hạn, đất nhiễm mặn không nên bón đạm clorua.

– Phân kali – magie sunphat: có dạng bột mịn màu xám, chứa 20-30% K 2 O, 5-7% MgO, 16-22% S, được sử dụng hiệu quả trên đất cát nghèo, đất bạc màu.

– Phân Agripac của Canada: có dạng khô, hạt to, không vón cục, chứa 61% K 2 O, thường dùng để trộn với các loại phân bón khác.

– Muối kali 40%: có dạng muối trắng kết tinh có lẫn một ít vảy màu hồng nhạt, chứa 40% K, sử dụng hạn chế trên đất mặn.

Trên thị trường hiện có các loại sau: loại 2 yếu tố (N-P, N-K, P-K), loại 3 yếu tố (N-P-K), loại 4 yếu tố (N-P-K-Mg).

– Phân Amophor: tỉ lệ N:P:K là 1:1:0, chứa 18% N và 18% P 2O 5, dạng viên rời, dùng để bón cho đất phù sa, đất phèn.

– Phân Diamophor (DAP): tỉ lệ N:P:K là 1:2,6:0, chứa 18% N, 40% P 2O 5, thích hợp cho đất phèn, đất bazan.

– Phân hỗn hợp: 20:20:0; 23:23:0; 10:10:0 dùng để bón lót.

– Phân kali nitrat: chứa 13% N, 45% K 2­ O, dùng để bón cho đất nghèo kali.

– Phân hỗn hợp: 30:0:10; 20:0:20; 20:0:10, dùng để bón vào cuối thời kỳ sinh trưởng của cây.

– Phân PK 0:1:3: chứa 55% supe lân và 45% KCl, dùng cho đất bạc màu, đất cát nhẹ.

– Phân PK 0:1:2: chứa 65% supe phôt phat và 35% KCl.

– Phân Amsuka: có tỉ lệ NPK là 1:0,4:0,8, được sản xuất bằng cách trộn amôn với supe lân đã trung hòa vào muối KCl

+ Loại có tỉ lệ NPK là 1:0,4:1,3; được sản xuất bằng cách trộn muối nitrat với axit photphoric; chứa 13% N, 5,7% P 2O 5, 17,4% K 2 O.

+ Loại có tỉ lệ NPK là 1:0,3:0,9; được sản xuất bằng cách trộn muối nitrat với axit sunphuric; chứa 13,6% N, 3,9% P 2O 5, 12,4% K 2 O.

– có tỉ lệ NPK là 5:10:3; trong phân ngoài chứa NPK còn có 6,7% MgO, 10-11% SiO Phân viên NPK Văn Điển: 2, 13-14% CaO.

– Phân hỗn hợp NPK 3 màu: do nhà máy phân bón Bình Điền 2 sản xuất, có các dạng: 15:15:15; 20:20:15; 15:10:15; 16:16:8; 14:8:6; 15:15:6.

– Phân tổng hợp NPK: do nhà máy phân bón Đồng Nai sản xuất, gồm các dạng: 16:16:8; 14:8:6; 10:10:5; 15:15:20.

– Phân lưu huỳnh: phân supe lân chứa 12% S, phân supe hạt kali chứa 18% S, phân sunphat amon (SA) chứa 23% S, phân sunphat kali – magie chứa 16-22% S.

– Phân canxi: phân lân nung chảy Văn Điển chứa 28-32% Ca, phân lân NPK Văn Điển chứa 13-14% CaO, phân supe lân chứa 22-23% CaO.

– Phân magie: phân lân Văn Điển chứa 17-20% Mg, phân sunphat – magie chứa 5-7% Mg, phân borat magie chứa 19% Mg.

– Phân Bo: gồm phân axit boric, phân borat natri, borat magie.

– Phân mangan: gồm sunphat mangan, clorua mangan, pecmanganat kali.

– Phân Molipden: gồm molipdat natri, molipdat amon.

– Phân kẽm: gồm sunphat kẽm, clorua kẽm.

– Là những hợp chất dinh dưỡng, có thể là các nguyên tố đa lượng, trung lượng hoặc vi lượng, được hòa tan trong nước và phun lên cây để cây hấp thụ.

– Phân bón lá có thể là các loại phân đơn như N, P, K, Cu, Zn,… Tuy nhiên phần lớn các loại phân bón qua lá là những hỗn hợp các chất dinh dưỡng đa lượng và vi lượng ở dạng hòa tan trong nước.

Phân chuồng: là phân do gia súc thải ra như phân lợn, phân trâu bò ngựa, phân gà vịt… Thành phần dinh dưỡng của phân chuồng gồm các đa lượng và vi lượng với hàm lượng tùy thuộc từng loại, thời gian và phương pháp ủ phân.

là phân hữu cơ được chế biến từ rác, cỏ dại, thân lá cây xanh, bèo tây, rơm rạ, chất thải rắn thành phố… được ủ với một số phân men như phân chuồng, nước giải, lân, vôi… cho đến khi hoai mục.

là loại phân hữu cơ, sử dụng các loại bộ phận trên mặt đất của cây. Phân xanh thường được sử dụng tươi, không qua quá trình ủ. Cây phân xanh thường là cây họ đậu hoặc cỏ lào, cây quỳ dại…

– Phân than bùn: như Biomix, Biofer, Komix, Compomix, lân hữu cơ sinh học sông Gianh…

Đăng ký đánh giá, chứng nhận hợp quy phân bón ở đâu ?

Trung tâm giám định và chứng nhận hợp chuẩn hợp quy – VietCert

Trụ sở Hà Nội: 0905. 924 299 – Trụ sở HCM: 0905 357 459 – Trụ sở Đà Nẵng: 0935. 711 299 – Trụ sở Cần Thơ: 0905. 539 099 – Trụ sở DakLak: 0905 527 089

Email: info@vietcert.org

Vai Trò Của Phân Hữu Cơ Và Vô Cơ Đối Với Cây Trồng

Phân hữu cơ có vai trò cải thiện lý tính và hoá tình của đất như tăng cường chất mùn giúp đất trồng tơi xốp giữ ẩm tốt, cải thiện độ PH, tăng cường dinh dưỡng cho đất, giúp các vi sinh vật trong đất hoạt động tốt hơn. Vì thế hàng năm sau mỗi vụ thu hoạch bà con cần tăng cường chất hữu cơ để cây trồng phát triển tốt hơn.

Phân biệt phân hữu cơ và phân vô cơ

Phân hữu cơ

Phân hữu cơ là phân chứa các nguyên tố dinh dưỡng đa lượng, trung lượng, vi lượng có nguồn gốc xuất phát từ các chất hữu cơ trong tự nhiên; Thông thường, phân hữu cơ được hình thành từ các loại phân, chất thải của động vật, phụ phế phẩm trong hoạt động nông nghiệp, phế thải trong quá trình sinh hoạt, rác thải, phụ phẩm từ các nhà máy chế biến thuỷ hải sản…Các hợp chất dinh dưỡng nằm ở dạng hợp chất hữu cơ.

Phân để lâu ngày trong tự nhiên có thể thành phân bón cho cây. Người ta có thể chế biến phân hữu cơ hoặc ủ hoai mục phân, cây xanh để thành phân hoặc sản xuất phân ủ.

Phân vô cơ:

Phân vô cơ hay phân hoá học là những hóa chất chứa các chất dinh dưỡng thiết yếu cho cây được bón vào cây nhằm tăng năng suất, có các loại phân bón hóa học chính: phân đạm (N), phân lân (P), phân kali (K), phân phức hợp, phân hỗn hợp, phân vi lượng. Thông thường, phân vô cơ là những loại phân đơn được sản xuất từ các nhà máy trên cơ sở phản ứng hoá học để tạo ra các loại phân này. Ví dụ như phân đạm, urê , phân lân, phân kali… Vì thế khi sử dụng nhiều phân hoá học sẽ làm chai cứng đất và giảm độ lý tính, hoá tình của đất khác với phân hữu cơ sẽ giúp ngày càng tơi xốp, tăng độ bùn, khả năng giữ nước tốt hơn tạo điều kiện cho vi sinh vật phát triển.

Ngộ độc phân hữu cơ: hiện tượng ngộ độc phân bón thường xảy ra đối với phân hoá học tuy nhiên khi bón phân hữu cơ cũng có một vài trường hợp xảy ra ngộ độc đó là:

Sử dụng phân hữu cơ với liều lượng quá nhiều và bón sát gốc

Bón phân hữu cơ khi chưa ủ hoai mục, trong phân này còn rất nhiều vi sinh vật độc hại

Phân hữu cơ sinh học là gì?

Theo cách tự nhiên các chất hữu cơ trong nông nghiệp như than bùn, chất thải chăn nuôi, phụ phẩm nông nghiệp ủ hoai mục để tạo thành mùn quá trình đòi hỏi thời gian từ 4 – 6 tháng hoặc 1 năm. Loại mùn này sẽ được bón vào đất để cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng.

Phân hữu cơ vi sinh ngoài các vi sinh vật có ích ra chúng còn được bổ sung những chất hữu cơ. Thông qua các hoạt động sống của chúng tạo ra các chất dinh dưỡng mà cây trồng có thể sử dụng được như đạm, lân, kali… hay các hoạt chất sinh học giúp cây trồng phát triển tốt.

Bên cạnh đó việc sử dụng phân hữu cơ vi sinh nhiều còn có thể giảm lượng phân bón vô cơ từ 10 – 50%. Ngoài ra còn có thể giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật do cây trồng sinh trưởng khoẻ chống chọi tốt với các loại sâu bệnh có trong tự nhiên.

Phân bón lá có phải là phân hữu cơ hay không: phân bón là không phải là phân hữu cơ mà thông thường là những nhóm dinh dưỡng, axit amin hoặc vitamin. Các loại phân hữu cơ có hàm lưỡng hữu cơ rất cao và không dùng bón qua lá.

Cách ủ và trộn phân chuồng thành phân vi sinh

Các bã trong quá trình sản xuất như bã nấm rơm, rơm rạ, bã cà phê sau khi thu hoạch xong chúng chiếm tới 40 – 50% thành phần đống ủ trong phân hữu cơ vi sinh. 50% nữa là phân lợn có thể dùng phân tươi và tất cả được trộn với chế phẩm sinh học Manure Odor. Trong đó, Manure Odor là chế phẩm sinh học hỗ trợ bổ sung trực tiếp các chủng vi sinh vật có lợi vào trong phân hữu cơ của BiOWiSH™ Vietnam. Góp phần giúp phân huỷ nhanh các thành phần hữu cơ trong phân bón; biến các chất khó tiêu tạo thành các chất dinh dưỡng dễ tiêu giúp cây trồng dễ dàng hấp thụ.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phân Gà Có Tốt Không? Vai Trò Của Phân Gà Đối Với Cây Trồng trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!