Đề Xuất 4/2023 # Lan Bướm, Lan Cành Giao: Papilionanthe # Top 12 Like | Vitagrowthheight.com

Đề Xuất 4/2023 # Lan Bướm, Lan Cành Giao: Papilionanthe # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Lan Bướm, Lan Cành Giao: Papilionanthe mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Loài lan Papilionanthe do Rudolf Schlechter (1872-1925) một khoa học gia người Đức công bố vào năm 1915. Loài lan này trước kia được xếp vào giống Vanda teres, vì lá cây giống như chiếc đũa hay chiếc bút chì (pencil-like).

Tên Việt do Phạm Hoàng Hộ: Lan Cành Giao, Vân Lan. Trần Hợp: Lan Bướm. Thân đơn cao từ 1-2 m, hoa giống như hình con bướm mọc trên các đầm lầy, rừng rậm từ Sri Lanka, Á Châu và các đảo quốc thuộc Thái Bình Dương. Là một giống phong lan (epiphytes) cho nên rễ lan nhỏ và nhiều thường bám trên các cành cây.

Lan Bướm, Lan Cành Giao: Papilionanthe

Trên thế giới có khoảng 10 giống.

• Papilionanthe biswasiana(Ghose & Mukerjee) Garay (1974) • Papilionanthe greenii(W. W. Sm.) Garay (1974) • Papilionanthe hookeriana(Rchb. f.) Schltr. (1915) • Papilionanthe pedunculata(Kerr) Garay (1974) • Papilionanthe sillemiana(Rchb. f.) Garay (1974) • Papilionanthe subulata(Willd.) Garay (1974) • Papilionanthe teres(Roxb.) Schltr.(1915) • Papilionanthe tricuspidata(J. J. Sm.) Garay (1974) • Papilionanthe uniflora(Lindl.) Garay (1974)

Việt Nam có 3 giống sau đây:

Papilionanthe hookeriana Đồng danh: Vanda hookeriana Rchb.f 1856. Phong lan hay địa lan, thân nhỏ, cao trên 1 m, lá hình ống như chiếc đũa dài 10-15 cm. Hoa mọc ở gần ngọn từ 3-12 chiếc, to 4-7 cm. Môi hoa có những chấm tím, nở 2-3 chiếc một, vào xuân và hạ. Hoa lâu tàn. Nơi mọc: Đà Lạt, Biên Hòa, Đồng Nai. Papilionanthe pedunculata Đồng danh: Aerides pedunculata Kerr 1935 Phong lan, thân cao 1-3 m, lá hình ống dài 5-10 cm. Chùm hoa dài chừng 15 cm. Hoa 5-10 chiếc, nở 5-6 chiếc một lượt, to chừng 5-7 cm. Lâu tàn nở vào mùa Xuân. Nơi mọc: Lâm Đồng, Đà Lạt Papilionanthe teres Đồng danh: Vanda teres (Roxb.) Lindl. 1833 Phong lan hay điạ lan cao chừng 1 m, lá hình ống như chiếc đũa. Dò hoa dài 20-30 cm, hoa 5-7 chiếc nhưng chỉ nở 2-3 chiếc một lần. Môi hoa không có chấm tím như Papilionanthe hookeriana. Nở vào mùa Xuân-Hạ và lâu tàn. Lan mọc ở Đồng Nai, Đà Lạt và Huế. Giống lan này còn có hoa mầu trắng, trong họng mầu vàng. Sau đây là hình ảnh của những giống lan khác không mọc tại Việt Nam:

Papilionanthe biswasiana Papilionanthe subulata Đồng danh: Aerides cylindrica Lindl. 1833, Papilionanthe cylindrica (Lindl.) Seidenf. 1995

Papilionanthe tricuspidata Papilionanthe uniflora Đồng danh: Aerides longicornu Hook. f. 1890; Aerides uniflora (Lindl.) Summerh. 1956

Papilionanthe vandarum Đồng danh: Aerides cylindricum Hooker 1857; *Aerides vandarum Rchb. f. 1867; Vanda vandarum (Rchb.f.) K.Karas. 1992

Các giống: Papilionanthe greenii, Papilionanthe sillemianachưa tìm thấy hình ảnh.

Vanda hay Papilionanthe Miss Joaquim một cây lai giống tự nhiên giữa Papilionanthe hookeriana x Papilionanthe teres đã được chọn là quốc hoa của Singapore.

CÁCH TRỒNG Lan Bướm, Lan Cành Giao: Papilionanthe

Loài lan này cần rất nhiều ánh sáng, thoáng gió, nhiều phân bón, nhiệt độ từ 25-35°C hay 77-95°F và ẩm độ cao từ 70-90%. Các tư nhân và nhà trồng lan cắt hoa thường trồng trên các luống ở ngoài trời với các cọc chống giữ cho lan bám vào. Lan có thể trồng với vỏ dừa cắt nhỏ, vỏ thông, vỏ dăm bào, vỏ đậu phọng v.v… Tưới nước cho thật đẫm và bón phân thật nhiều với liều lượng 1 thìa cà phê cho 4 lít nước.

Lan Cành Giao – Papilionanthe Teres Roxb Schltr

Lan Cành Giao, Vân Lan, Lan Bướm hoa giống như hình con bướm mọc trên các đầm lầy, rừng rậm từ Sri Lanka, Á Châu và các đảo quốc thuộc Thái Bình Dương.

Lan cành giao, lan bướm

Nơi mọc: Đà Lạt ,lào ,tây bắc

Mô tả: Phong lan hay địa lan, cao trên 1 m lá hình ống. Chùm hoa dài 15-30 cm có 3-6 hoa to 7-10 cm. Hoa lâu tàn và thơm.

Điều kiện nuôi trồng: Trồng nơi có nắng sáng hay chiều W = warm nóng từ 60-90°F hay 15.6-32.2°C I = intermediate vừa từ 50-80°F hay 10-26.7°C

Ẩm độ: 50-70%

Cách trồng: tạo chất trồng ẩm ,để trong mát sau khi ra rễ để nắng trực tiếp .có thể ghép chậu có thêm gốc cây .

Loài lan Papilionanthe do Rudolf Schlechter (1872-1925) một khoa học gia người Đức công bố vào năm 1915. Loài lan này trước kia được xếp vào giống Vanda teres, vì lá cây giống như chiếc đũa hay chiếc bút chì (pencil-like). Tên Việt do Phạm Hoàng Hộ: Lan Cành Giao, Vân Lan. Trần Hợp: Lan Bướm. Thân đơn cao từ 1-2 m, hoa giống như hình con bướm mọc trên các đầm lầy, rừng rậm từ Sri Lanka, Á Châu và các đảo quốc thuộc Thái Bình Dương. Là một giống phong lan (epiphytes) cho nên rễ lan nhỏ và nhiều thường bám trên các cành cây.

Trên thế giới có khoảng 10 giống.

• Papilionanthe biswasiana (Ghose & Mukerjee) Garay (1974) • Papilionanthe greenii (W. W. Sm.) Garay (1974) • Papilionanthe hookeriana (Rchb. f.) Schltr. (1915) • Papilionanthe pedunculata (Kerr) Garay (1974) • Papilionanthe sillemiana (Rchb. f.) Garay (1974) • Papilionanthe subulata (Willd.) Garay (1974) • Papilionanthe teres (Roxb.) Schltr.(1915) • Papilionanthe tricuspidata (J. J. Sm.) Garay (1974) • Papilionanthe uniflora (Lindl.) Garay (1974)

Việt Nam có 3 giống sau đây:

Papilionanthe hookeriana Đồng danh: Vanda hookeriana Rchb.f 1856. Phong lan hay địa lan, thân nhỏ, cao trên 1 m, lá hình ống như chiếc đũa dài 10-15 cm. Hoa mọc ở gần ngọn từ 3-12 chiếc, to 4-7 cm. Môi hoa có những chấm tím, nở 2-3 chiếc một, vào xuân và hạ. Hoa lâu tàn. Nơi mọc: Đà Lạt, Biên Hòa, Đồng Nai.

Papilionanthe pedunculata Đồng danh: Aerides pedunculata Kerr 1935 Phong lan, thân cao 1-3 m, lá hình ống dài 5-10 cm. Chùm hoa dài chừng 15 cm. Hoa 5-10 chiếc, nở 5-6 chiếc một lượt, to chừng 5-7 cm. Lâu tàn nở vào mùa Xuân. Nơi mọc: Lâm Đồng, Đà Lạt

Papilionanthe teres Đồng danh: Vanda teres (Roxb.) Lindl. 1833 Phong lan hay điạ lan cao chừng 1 m, lá hình ống như chiếc đũa. Dò hoa dài 20-30 cm, hoa 5-7 chiếc nhưng chỉ nở 2-3 chiếc một lần. Môi hoa không có chấm tím như Papilionanthe hookeriana. Nở vào mùa Xuân-Hạ và lâu tàn.

Nơi mọc: Lan mọc ở Đồng Nai, Đà Lạt và Huế.

Sau đây là hình ảnh của những giống lan khác không mọc tại Việt Nam:

Papilionanthe biswasiana

Papilionanthe subulata Đồng danh: Aerides cylindrica Lindl. 1833, Papilionanthe cylindrica (Lindl.) Seidenf. 1995

Papilionanthe tricuspidata

Papilionanthe uniflora Đồng danh: Aerides longicornu Hook. f. 1890; Aerides uniflora (Lindl.) Summerh. 1956

Papilionanthe vandarum Đồng danh: Aerides cylindricum Hooker 1857; *Aerides vandarum Rchb. f. 1867; Vanda vandarum (Rchb.f.) K.Karas. 1992

Các giống: Papilionanthe greenii, Papilionanthe sillemiana chưa tìm thấy hình ảnh.

Vanda hay Papilionanthe Miss Joaquim một cây lai giống tự nhiên giữa Papilionanth

e hookeriana x Papilionanthe teres đã được chọn là quốc hoa của Singapore.

CÁCH TRỒNG

Loài lan này cần rất nhiều ánh sáng, thoáng gió, nhiều phân bón, nhiệt độ từ 25-35°C hay 77-95°F và ẩm độ cao từ 70-90%. Các tư nhân và nhà trồng lan cắt hoa thường trồng trên các luống ở ngoài trời với các cọc chống giữ cho lan bám vào. Lan có thể trồng với vỏ dừa cắt nhỏ, vỏ thông, vỏ dăm bào, vỏ đậu phọng v.v… Tưới nước cho thật đẫm và bón phân thật nhiều với liều lượng 1 thìa cà phê cho 4 lít nước.

Cây Xương Khô (San Hô Xanh,Xương Cá,Cây Giao,Cành Giao)

Cây giao là một loại cây thuộc họ xương rồng, không lá, không gai (Có nơi còn gọi là cây nọc rắn, cây càng tôm, cây xương khô, xương cá hay cây san hô xanh…). Cây mọc hoang ở nhiều nơi, ở thôn quê cây thường được trồng làm hàng rào.

Thân chỉ gồm nhiều đốt tròn có đường kính như chiếc đũa, màu xanh, có độ dài không đều, mọc tua tủa ra các phía. Lá nhỏ, hẹp, rụng sớm, thường chỉ có cành nhánh trơ trọi. Thân khi bẻ ra thấy nhiều mủ màu trắng đục như sữa, và chính mủ này là vị thuốc trị bệnh xoang.

Cây dễ trồng, có thể cắt cành và giâm xuống đất ẩm. Sau khi giâm, người ta tưới nước vừa phải mỗi ngày, sau vài ngày thì cây sẽ bén rễ, rồi dần sẽ nảy nhánh con, phát triển tốt.

Cây xương, cây bút chì

Euphorbia tirucalli (còn gọi là Cây Firestick , cây Spurge (Ấn Độ) , Naked Lady, cây Bút chì , Sticks on Fire hoặc Milk Bush ) (tiếng Phạn: saptala सप्तला, सातला satala, Marathi: Sher-kandvel शेर – कांडवेल) là một loại cây bụi mọc ở bán khô hạn nhiệt đới khí hậu.

Euphorbiaceae và chi Euphorbia tên được đặt theo tên của một anh hùng Linnaeus là Euphorbus, đầu thế kỷ bác sĩ cho vua Juba của Mauritania. Ông được cho là đã sử dụng cây của chi này như là thuốc. Các loài tirucalli tên đã được đưa ra bởi Linnaeus năm 1753 vì đây là tên được sử dụng bởi người bản địa của Malabar, một vùng ở miền nam Ấn Độ. Các hàng rào Euphorbia tirucalli đã được trồng rộng rãi. Các thương nhân và thủy thủ từ Nam Phi đã mang loài này đến Ấn Độ và vùng Viễn Đông từ rất sớm và thực tế là loài cây này đã cho thấy sự thích nghi đáng kinh ngạc của mình tại những vùng đất này.

Phân loại khoa học

Giới: PlantaeBộ phận: MagnoliophytaLớp: MagnoliopsidaBộ: MalpighialesHọ: EuphorbiaceaeChi: Euphorbia EuphorbiaCác loài: E. tirucalliTên nhị thức Euphorbia tirucalli L.

Đặc điểm

Euphorbia tirucalli là một thực vật mọng nước-phân nhánh nhiều, thường là 3-5 m nhưng có thể đạt 10 m. Vỏ cây lâu năm có màu xám và thô với vết lõm theo chiều dọc và các sống mà chia thành các mảnh nhỏ. Ta có thể dễ dàng quan sát thấy một núm lồi ra hoặc sưng trên vỏ cây và đôi khi màu đen, thô ráp, băng ngang .Các nhành có hình trụ, mịn màng và glabrous xanh, đường kính 5-8 mm, tạo thành khối giống như bàn chải.Một đặc điểm được biết đến của loài này là Cây không có gai.

Lá cây nhỏ và mảnh dẻ, lên đến 12 x 1,5 mm, hiếm khi thấy, vì rơi rất sớm. Những cành cây mỏng được treo xuống, màu xanh nhạt và đối diện mỗi nhánh khác, phát tán lộn xộn không theo một phương hướng nhất định nào cả.

Các hoa màu vàng, không dễ thấy, và mang trong cụm ở đỉnh của các ngành ngắn hoặc trong các góc của các ngành. Hoa nở từ Tháng 9 đếnTháng 12.

Quả là viên nang ba bên (chia thành ba phần), khoảng 12 mm, đường kính, theo chiều dọc rất nhẹ thùy, cuống ngắn (8 mm), màu xanh nhạt, với một pha màu hồng và dễ thấy dậy thì (mặc quần áo với lông mềm). Cũng như với các thành viên khác, các viên nang tách ra trong khi vẫn còn trên cây. Các loại trái cây xuất hiện từ Tháng Mười Một-Tháng Mười Hai. Nói chung các thân cây được uốn cong ở một góc.

Các hạt hình bầu dục, khoảng 4 x 3 mm, glabrous, mịn màng và màu nâu sẫm với một đường trắng quanh nhục phụ trắng nhỏ (nhiều thịt mụn cóc gần hilum của hạt).

Euphorbia tirucalli phân phối rộng rãi ở châu Phi, được tìm thấy nhiều ở phía đông bắc, miền trung và miền nam châu Phi. Nó cũng được tìm thấy ở một số đảo lân cận và bán đảo Ả Rập và đã được giới thiệu với nhiều khu vực nhiệt đới khác như Châu Á, trong đó có Việt Nam.

Có hơn 2000 loài Euphorbia tìm thấy trong các vùng có khí hậu nóng của thế giới. Từ khoảng 200 loài được tìm thấy ở Nam Phi, 14 loài trong số đó có thể được xem như là cây(một chi). Nhiều cây mọng nước giống như cây xương rồng và cái nhìn đầu tiên thường bị nhầm lẫn với xương rồng.

Euphorbia tirucalli phân bố rộng tại phía Đông và ở phía bắc ở Ethiopia. Do đó hiện diện trong tất cả các phần ấm của Nam Phi và đặc biệt nhiều ở KwaZulu-Natal, nơi mà đôi khi đứng trên cao mới có thể quan sát thấy. Bên ngoài Châu Phi, loài cây này cũng có ở Ấn Độ, Indonesia, Trung Quốc và quần đảo Philippines.

Tên gọi chung phòng hộ Euphorbia tirucalli dùng để sử dụng rộng rãi của nó như là hàng rào được trồng xung quanh hộ trồng, vật nuôi habitations và bút. Bằng cách này, muỗi và những kẻ xâm nhập khác có thể sinh sống như trong euphorbias khác. Nhực của Euphorbia tirucalli rất độc và có thể gây mù mắt, mụn nước trên da, và thậm chí gây tử vong nếu nuốt nhiều nhựa của nó. Có ít nhất một ghi nhận trường hợp nó gây tử vong do xuất huyết dạ dày-ruột. Trong y học truyền thống nó được xem như là một chữa bệnh cho bất lực tình dục và thuốc giải độc một cho rắn cắn.Việc sử dụng Euphorbia tirucalli như là một chất độc cá cũng là ứng dụng tốt.

Vì nó không bị tấn công bởi sâu đục thân nên nó được sử dụng làm cột chống mái nhà.

Kỹ thuật trồng cây bút chì:

Euphorbia tirucalli phát triển tương đối nhanh và phát triển mạnh tại trung bình đến khí hậu ấm áp. Nó không có vẻ để đối phó với lạnh. Cây có thể dễ dàng được trồng bằng hạt, nhánh. Cát thô được xem là lý tưởng để gieo trồng những hạt giống.

Hạt tươi phải được gieo vào cuối mùa hè từ tháng Hai đến tháng Ba và giữ trong một khu vực ấm ẩm. Cây thích rễ được khô, đặc biệt là vào mùa đông. Cây được trồng sinh trưởng tương đối nhanh chóng nếu được bón phân, tưới nước phân heo, các loại đất thoát nước tốt.

Cây giao trong y học:

Công dụng chủ yếu là chữa chứng bệnh viêm xoang mũi.

Toàn cây giao có vị cay, hơi chua, tính mát, hơi có độc, có tác dụng thúc sữa, sát trùng, khử phong, tiêu viêm, giải độc. Chuẩn bị một cái ấm nước nhỏ (nhôm, sành đều được nhưng không dùng để nấu nước uống vì sợ độc). Lấy một miếng giấy khá lớn, một tờ giấy lịch treo tường lớn hoặc nối 2 – 3 tờ giấy A4 bằng băng keo thành 1 tờ lớn, rồi quấn xéo lại thành một cái ống dài khoảng 5 tấc (50cm) chứ không được làm ngắn hơn vì sẽ quá nóng, dễ bị phỏng da còn nếu dài quá thì hơi không đủ mạnh để hít.

Ống phải quấn sao cho 1 đầu vừa hoặc lớn hơn miệng vòi ấm còn 1 đầu nhỏ hơn sao vừa vào mũi để hít. Nếu có ống tre thì tốt hơn, nhưng không được dùng nhựa, dễ nóng chảy! Mở nắp ấm, đổ vào cỡ một chén nước. Đếm cỡ 10 – 20 đốt cây xương cá (tùy theo số cây mình có được nhiều hay ít), cắt nhỏ các đốt cây (thành cỡ phân nửa của lóng tay) rồi thả vào ấm. Nên cắt cây ngay trên miệng ấm, để cho mủ cây nhỏ vào ấm càng tốt. Phải luôn cẩn thận tránh mủ văng vào mắt, nguy hiểm.

Đặt ấm lên bếp, vặn lửa thật lớn cho nước trong ấm sôi lên. Đến khi thấy hơi xông ra nhiều từ vòi ấm thì ta bớt lửa đến cực nhỏ, chỉ canh sao cho vừa đủ để hơi vẫn còn bốc ra nhẹ ở vòi ấm là đủ. Lấy ống giấy đã quấn, đưa đầu lớn của ống vào vòi ấm, còn đầu nhỏ cho vào mũi để hít hơi xông lên. Thời gian xông có thể chỉ là 15 – 20 phút, hay nếu có thời gian thì xông 30 – 50 phút. Nên để dành và hâm lại nước trong ấm để dùng, thường là 2 lần trong ngày (sáng và tối). Sau đó đổ bỏ, hôm sau làm lại liều thuốc mới. Khi hâm lại dùng lần 2 thì cho thêm một ít nước cùng với 1 vài đốt cây để bổ sung thêm thuốc.

Lưu ý: Nên bắt đầu xông ngay khi vừa bốc hơi, để tận dụng lúc chất mủ còn đậm đặc sẽ đạt hiệu quả nhanh. Vì hơi xông ra rất nóng, nên ta có thể hít một lát, đến khi thấy nóng quá thì quay mặt ra thở bên ngoài, rồi lại quay vào xông tiếp. Nên linh động làm sao để xông một cách thoải mái là được. Bình thường, chỉ sau từ 2 – 3 hoặc 4 lần xông sẽ thấy thuyên giảm rõ. Không nên xông trị viêm xoang cho phụ nữ đang có thai.

Papilionanthe Hookeriana (Rchb. F.) Schlechter 1915 Cây Lan Tại Việt Nam

Có lẽ vì tuổi già lú lẫn, hay vì trong những chuyến về thăm quê hương từ Bắc xuống Nam và trong cả hàng chuc ngàn hình ảnh các bạn ở VN tặng cho cũng không hề thấy bóng dáng cây lan này cho nên đã bỏ sót chăng?

Papilionanthe hookeriana (Rchb. f.) Schlechter 1915 cây lan tại Việt Nam

Vội vàng mở cuốn The Orchids of Indochina của nhà ngoại giao kiêm thảo mộc gia Gunnar Seidenfaden ấn bản 1992, trang 422 thấy như sau:

Papilionanthe hookeriana (Rchb. f.) Schltr.

Orchids 9: 80, 1915. – Seidenfaden 1975b: 90; 1988: 230, Fig. 142, Pl. XXVa; Averyanov 1988g: 35 1990:134.

Vanda hookeriana Rchb. f., Bompl. 4: 324, 1856. – Gagnepain).

Occurrence: Vietnam: Benthan, Bienhoa (Regnier fide Gagnepain).

Distribution: Thailand, Malaya, Indonesia.

I have not seen Indochinese material of this species.

Tiếp theo là cuốn Cây cỏ Việt Nam của Phạm hoàng Hộ, ấn hành năm 1993, trang 1158 có ghi rõ như sau:

10407 Papilionanthe hookeriana (Reichb. f.) Schltr. Vân lan Hooker.

Thân hình trụ, to 5 mm, lóng dài, có rễ khí sinh. Lá có phiên hình trụ nhọn, thắt ở 2 cm gần chọt dài đến 8 cm, màu lục tái. Chùm ở chót thân; có 1-2 bẹ bao; hoa 2-5, to rộng 4-6,5 cm,trắng có đốm và sọc đỏ hay tím, môi có sọc dọc và ngang, màu tía, có thuỳ cạnh đứng, thuỳ giữa hình quạt, móng 2 mm; cột có nấp vàng; phấn khối 2. Nang dài 10 cm.

Biên Hoà (Bến Thâm); IX (hình theo Bọt Register).

Flower white, red or purple dotted or striped (Vanda hookerianaReichb. f.).

Trên trang 457 cuốn Phong Lan Việt Nam của Trần Hợp xuất bản năm 1998 có ghi:

Lan Bướm môi nguyên – Papilionanthe hookeriana (Rchb.F) Schltr (Vanda hookeriana).

Lan sống phụ hay ở đất. Thân hình trụ, có đốt dài, nhiều rễ ở các đốt. Lá hình trụ nọn dài 8 cm, đỉnh thắt có móng. Cụm hoa có đốt phía đỉnh mang 2-3 hoa. Hoa lớn, đường kính 4-7 cm, màu trắng có đốm, sọc mầu đỏ tím. Cánh môi chia 3 thuỳ nguyên, có sọc dọc, ngang mầu tía.

Cây mọc ở Nam bộ: Đồng Nai.

Trong trang www.orchidspecies.com cũng có ghi như sau:

Papilionanthe hookeriana [Rchb. f.] Schlechter 1915 Photo courtesy of Tropical Orchid Farm of Maui.

Flowers 2″ [5 cm]

A large sized, ranging, monopodial, terrestrial, terete leafed orchid that is warm to hot growing and likes full sun as it is found in open, swampy areas of Vietnam, Thailand, penninsular Malaya, Sumatra, and Borneo near the seacoast in semi-deciduous and deciduous dry lowland forests and savana-like woodlands in deep peaty soils that submerge annually in freshwater floods at elevations of sealevel to 700 meters with a slender, scrambling, terete, long stem carrying terete, sulcate, mucronate, constricted 3/4″ below the apex leaves and blooms in the spring and summer with an axillary, 12″ [30 cm] long, sheathed at the base inflorescence that has large bracts with a several [2 to 12], large, showy, long-lived, successively opening flowers.

A poulstice is made with leaves that are heated and applied to sore or rheumatic joints in the Moluccas Islands.

Synonyms Vanda hookeri Hort. 1882, *Vanda hookeriana Rchb.f 1856

Trong cuốn Updated Checklist Of The Orchids Of Vietnam của Leonid Averyanov ấn hành năm 2003 cũng có tên cây này trong danh sách các cây Papilionanthe.

Tổng hợp các chi tiết hiện hữu thâu lượm được trên Internet, chúng tôi xin bổ túc như sau:

Việt Nam có 3 giống Papilionanthe: Papilionanthe hookeriana, Papilionanthe pedunculata và Papilionanthe teres.

Papilionanthe hookeriana (Rchb. f.) Schlechter 1915 Đồng danh: Vanda hookeriHort. 1882, Vanda hookeriana Rchb.f 1856. Tên Việt: chưa có. Mô tả: Phong lan hay địa lan, thân nhỏ, cao trên 1 m, lá hình ống như chiếc đũa dài 10-15 cm. Hoa mọc ở gần ngọn từ 3-12 chiếc, to 4-7 cm. Môi hoa có những chấm tím, nở 2-3 chiếc một, vào xuân và hạ. Hoa lâu tàn. Nơi mọc: Đà Lạt, Biên Hòa, Đồng Nai.

Với cây Papilionanthe hookeriana, loài Papilionanthe ở VN sẽ là 3 giống và nâng tổng số lên 1153 giống (species).

Tuy vậy chúng tôi vẫn nghi ngờ về sự có mặt của cây lan này tại Việt Nam. Xin các bạn Lê trọng Châu, Nguyễn Phi Tâm tại Đà lạt cũng như các bạn ở nơi khác cố tìm xem sao. Chẳng lẽ một cây lan đẹp như vậy mà không một ai tìm thấy hay sao?

Bạn đang đọc nội dung bài viết Lan Bướm, Lan Cành Giao: Papilionanthe trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!