Đề Xuất 3/2023 # Kỹ Thuật Trồng Vừng Chống Hạn Vụ Hè Thu # Top 7 Like | Vitagrowthheight.com

Đề Xuất 3/2023 # Kỹ Thuật Trồng Vừng Chống Hạn Vụ Hè Thu # Top 7 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Kỹ Thuật Trồng Vừng Chống Hạn Vụ Hè Thu mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Kỹ thuật trồng vừng chống hạn vụ Hè Thu

Khi sản xuất màu ở vụ Hè Thu, bà con nông dân luôn gặp điều kiện khô hạn, thiếu nước. Vì vậy cần bố trí cây trồng phù hợp để chống hạn và nâng cao hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích đất canh tác là rất cần thiết.

Cây vừng là loại cây trồng không kén đất, có thời gian sinh trưởng ngắn (khoảng 75 ngày), lại chịu hạn tốt. Chi phí đầu tư để trồng vừng thấp, kỹ thuật canh tác khá dễ dàng, phù hợp với những vùng đất hiếm nước. Năng suất vừng đạt khá cao, khoảng 40 – 50kg /sào (500m2), giá thành 40.000 – 45.000 đồng/kg.

Những vùng sản xuất rau màu hiệu quả thấp thì bà con nên chuyển đổi sang trồng vừng ở vụ Hè Thu. Để chuyển đổi thành công bà con cần lưu ý một số khâu kỹ thuật trồng vừng như sau:

1. Thời vụ gieo trồng

Ở vụ Hè Thu, nên trồng trên đất cao, thoát nước tốt, tránh úng khi gặp mưa nhiều. Gieo vào tháng 4-5 dương lịch, thu hoạch vào tháng 6-7 dương lịch. Chủ yếu làm ở vụ Hè Thu, gieo trên đất màu hoặc đất lúa sau khi đã thu hoạch xong lúa vụ Đông Xuân. Vụ này hay gặp hạn khi gieo và gặp mưa to gây ngập úng cục bộ ở một số vùng vào thời kỳ thu hoạch, vì vậy gieo càng sớm càng tốt.

2. Giống

Phân loại về màu sắc có hai loại:

Vừng đen: Dễ trồng, mọc khỏe, sai quả, chín muộn hơn vừng trắng, thời gian sinh trưởng 3,0-3,5 tháng, thích hợp với đất và khí hậu đồi núi.

Vừng trắng: Loại quả tròn, sai quả, chín sớm, thời gian sinh trưởng 2,5-3 tháng, thích hợp với việc tăng vụ trồng xen.

Giống vừng V6 là giống vừng mới của Nhật đang được các tỉnh phía Bắc phát triển mạnh. Đây là giống có hàm lượng dầu cao thích hợp cho công nghiệp ép dầu.

Lượng giống cần cho 1 ha: 4 – 5 kg (gieo theo hàng).

3. Làm đất

Đất trồng: Thích hợp trên các chân đất thịt nhẹ, đất cát pha và thoát nước tốt.

Làm đất: Hạt vừng rất nhỏ nên phải làm đất thật kỹ, nếu không làm đất kỹ hạt sẽ bị vùi khó nảy mầm.

Đất cày sâu 15-20 cm, bừa kỹ nhiều lượt. Làm đất thật nhỏ và sạch cỏ, sau đó tiến hành lên luống.

Lên luống: Lên luống cao 15-20cm, luống rộng 1,5-2,5m, rãnh rộng 30-35cm để thoát nước tốt, mặt luống có hình lưng rùa. Những vùng đất cát pha, tơi xốp, thoát nước tốt thì gieo xong mới vét rãnh thoát nước, tạo thành từng luống rộng từ 2,5-3m.

4. Phân bón

* Lượng phân bón cho 1 sào (500m2):

– Phân chuồng hoai mục 200-250 kg/sào hoặc 25 kg hữu cơ vi sinh.

– Lân super: 20- 25kg.

– Urea: 5kg.                         

– Kali clorua: 5kg.

– Vôi: 20kg

*Cách bón:

Vôi bột rắc đều khi cày bừa.

Các loại phân chuồng, super lân và 1/2 lượng urea trộn đều và bón lót theo rãnh gieo, lấp một lớp đất mỏng trước khi gieo hạt giống.

Sau khi gieo 20 ngày bón thúc với lượng phân còn lại (1/2 lượng Urea, 5 kg KCl) kết hợp xới vun gốc.

5. Xử lý hạt giống

Hạt trước khi gieo cần phải xử lý một trong các loại thuốc sau: Copper-Zinc, Copper-B, Rovral, Benlate,… (2 gram trộn đều cho 1kg hạt).

Để đảm bảo cho vừng được gieo đều, hạt giống nên trộn với cát hoặc tro bếp theo tỷ lệ 1 hạt giống/m2 cát hoặc tro. Tro có tác dụng kích thích hạt nảy mầm nhanh, kiến không tha được hạt.

Rắc hạt đã trộn tro hoặc cát đều vào rãnh sau khi đã bón lót phân. Khoảng cách hàng cách hàng 30cm.

Nên gieo vào lúc đất đủ ẩm, hạt dễ nảy mầm, lấp hạt với một lớp đất mỏng 1 – 2 cm.

6. Chăm sóc

Sau khi cây vừng mọc cao khoảng 10 – 15cm thì tỉa cây với khoảng cách 5 – 7cm, đảm bảo mật độ 50 – 70 cây/m2.

Sau khi gieo 20 ngày thì bón thúc kết hợp với làm cỏ, xới xáo, vun gốc.

Sau khi mưa to cần tiêu nước kịp thời, trời nắng thì tuần tưới khoảng 2 lần.

7. Phòng trừ sâu bệnh:

*Một số sâu thường gặp: 

– Sâu khoang

Sâu khoang là loài ăn tạp, sâu non có màu nâu đen, đốt bụng thứ nhất có một vết đen to bao quanh, Sâuăn trụi lá, cắn đứt ngang cây. Thời kỳ ra hoa làm quả thì làm rụng hoa, đục khoét quả làm ảnh hưởng tới năng suất.

Có thể dùng một trong các loại thuốc sau: Padan 95SP, Sherpa 25EC, Cyperan 25EC. 

- Sâu cuốn lá

Sâu thường tập trung ở trên lá ngọn và nhả tơ cuốn hai mép lá vào nhau để sinh sống, sâu ăn biểu bì làm hỏng lá, ảnh hưởng đến quang hợp của cây, làm giảm năng suất.

Khi sâu ở mật độ cao, dùng một trong các loại thuốc sau để diệt trừ: Sherpa 25EC, Cyperan 25EC… liều dùng theo khuyến cáo trên nhãn mác.

- Rệp hại mè

Rệp sống tập trung từng đàn trên thân, lá ở phần ngọn, quả non. Rệp chích hút nhựa cây làm cho cây kém phát triển, lá ngọn xoắn lại, hoa ít, quả nhỏ ảnh hưởng tới năng suất. Chất thải của rệp là môi trường cho nấm bồ hóng phát triển làm đen cây.

Khi mật độ rệp cao dùng các loại thuốc sau để diệt trừ: Regent 800WG, Actara 25EC… liều dùng theo khuyến cáo trên nhãn mác.

- Rầy xanh

Rầy sống tập trung ở mặt dưới lá nên khó phát hiện, chích hút nhựa làm lá xoăn lại chuyển màu hơi vàng, rìa lá bị cháy và mật số rầy cao sẽ làm cháy lá, cây suy yếu không phát triển, rụng hoa và trái non. Rầy xanh cũng là tác nhân truyền bệnh virus cho cây vừng.

Có thể dùng một trong các loại thuốc sau: Actara 25EC, Applaud 10 WP,… để phòng trị.

- Bọ trĩ

Bọ trĩ xuất hiện từ lúc mè còn nhỏ (10-15 ngày sau gieo).

Bọ trĩ có kích thước rất nhỏ, còn non màu trắng sữa, di chuyển rất nhanh, thường ở dưới mặt lá non, chích hút nhựa làm lá bị vàng, cây cằn cỗi, kém phát triển.

Khi mật số cao có thể phun xịt thuốc như: Actara 25 WG, Admire 050 EC, Confidor 100SL.

* Một số bệnh thường gặp: 

-  Bệnh héo tươi: 

Do nấm Fusarium sesami gây ra, nấm này thường làm chết cây con. Do đó cần phải xử lý hạt giống bằng thuốc trước khi gieo, nếu trị bệnh dùng Copper-B, Alittle để trị.

-  Bệnh đốm phấn: 

Do nấm Oidium sp tấn công, bệnh lan truyền rất nhanh. Phòng trị bệnh bằng Ridomil, Anvil,…

- Bệnh khảm: 

Bệnh thường gặp khi trồng vừng, do rầy xanh truyền virus gây bệnh xoắn lá. Do đó chú ý phải diệt tác nhân gây bệnh là rầy.

8. Thu hoạch

Khi cây vừng có 3/4 số lá ngả vàng, quả đã cứng, chuyển màu từ vàng xanh sang vàng thẫm hoặc vàng nâu là thu hoạch được. Dùng liềm cắt cách gốc 10 cm, đem về ủ 1-2 hôm cho rụng hết lá rồi tãi ra sân phơi có lót màng nilon hoặc nong nia trong 4-5 giờ, sau đó đập, sàng sẩy lấy hạt.

Hạt vừng được phơi lại 1-2 nắng nữa cho khô (độ thủy phần khoảng 13%) thì đem tiêu thụ hoặc đưa vào kho bảo quản.

Theo khuyennongvn.gov.vn

Kỹ Thuật Phòng Chống Hạn Cho Cây Cà Phê

Trong tình trạng khô hạn như hiện nay, biện pháp lâu dài cũng như trước mắt là phải áp dụng kỹ thuật tưới tiên tiến tiết kiệm nước, tưới đúng thời điểm và vừa đủ nước cho cây trồng.

– Chủ động đào ao trữ nước; không trồng cà phê, hồ tiêu nơi không có nguồn nước tưới;

– Áp dụng kỹ thuật tưới tiên tiến tiết kiệm nước (tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa), tưới luân phiên, đúng thời điểm, vừa đủ nước;

– Kết hợp bón phân qua hệ thống tưới nhỏ giọt để nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón;

– Tăng cường hệ thống cây che bóng, đai rừng phòng hộ, trồng cây che phủ đất, trồng xen cây ăn quả phù hợp cho cà phê. Đối với cây hồ tiêu nên trồng choái sống;

– Tủ gốc bằng lá khô, rơm rạ và các phụ phẩm nông nghiệp (lưu ý công tác phòng chống cháy);

– Tăng cường bón phân hữu cơ nhằm nâng khả năng giữ ẩm và giữ phân của đất;

– Bón phân vô cơ cân đối, sử dụng các loại phân bón lá có khả năng nâng cao tính chịu hạn;

– Tỉa bớt cành nhánh nhằm hạn chế thoát hơi nước;

– Thường xuyên kiểm tra vườn phát hiện sớm dịch hại để phòng trừ kịp thời nhằm tăng khả năng chống chịu của cây trong điều kiện khô hạn;

– Theo dõi dự báo thời tiết nông nghiệp để có biện pháp ứng phó kịp thời.

Tủ gốc cho cây tiêu bằng rơm rạ góp phần giảm thiểu tác hại của hạn hán Mô hình trồng tiêu công nghệ cao

2. Biện pháp trước mắt trong tình hình khô hạn hiện nay:

– Tăng cường tủ gốc cho cây để giữ ẩm, hạn chế bốc hơi nước;

– Áp dụng tưới nước tiết kiệm: tưới gốc 250 – 300 lít/gốc, hoặc tưới nhỏ giọt 150 – 200 lít/gốc, chu kỳ 20 – 25 ngày tưới 1 lần;

– Sử dụng các loại phân bón lá chứa kẽm (Zn), bo (B) và Cl- hoặc NUCAFE từ 2 – 3 lần trong mùa khô để nâng cao khả năng chịu hạn, hạn chế rụng quả. Các giải pháp phòng trừ bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu

– Tăng cường tủ gốc cho cây để giữ ẩm, hạn chế bốc hơi nước;

– Đối với hồ tiêu giai đoạn kiến thiết cơ bản cần che bằng lưới cản để giảm cường độ ánh sáng trực xạ, giảm bốc thoát hơi nước;

– Áp dụng tưới nước tiết kiệm: tưới gốc 120 lít/gốc, chu kỳ 20 – 25 ngày tưới 1 lần; hoặc tưới nhỏ giọt 20 lít/gốc, chu kỳ 2 – 3 ngày tưới 1 lần;

– Bón phân hữu cơ hoai mục 15 – 20 kg/gốc, bón phân vô cơ cân đối giúp cây sinh trưởng khỏe; sử dụng KNO3, NUPE và các loại phân bón chuyên dùng cho hồ tiêu để nâng cao khả năng chịu hạn, hạn chế rụng gié.

Theo Trung tâm Khuyến Nông Quốc Gia

Phân Bón Vụ Lúa Hè Thu:

Vụ HT 2013, thay vì sử dụng phân chuyên dùng (phân phối trộn sẵn) nhiều nông dân ĐBSCL đã cân nhắc chọn mua các loại phân đơn về tự phối trộn theo công thức riêng bón lúa. Theo bà con, nguồn cung các loại phân đơn (đạm, lân, kali), đặc biệt là đạm trong nước khá dồi dào, giá cả phải chăng nên tiết giảm được chi phí.

Nông dân cân nhắc chọn lựa

chúng tôi – Vụ HT 2013, thay vì sử dụng phân chuyên dùng (phân phối trộn sẵn) nhiều nông dân ĐBSCL đã cân nhắc chọn mua các loại phân đơn về tự phối trộn theo công thức riêng bón lúa. Theo bà con, nguồn cung các loại phân đơn (đạm, lân, kali), đặc biệt là đạm trong nước khá dồi dào, giá cả phải chăng nên tiết giảm được chi phí.

Phối trộn phân đơn

Nông dân Võ Văn Bé ở xã Khánh An, huyện An Phú, An Giang vừa ra đại lý mua 20 bao phân cho 2,3 ha lúa HT vừa xuống giống, cho biết: “Giá phân vụ này không tăng cao lắm, chúng tôi thấy rất vui. Chứ mấy năm trước đến vụ là tăng lên ào ào chóng mặt.  Vụ lúa ĐX vừa qua bán lúa tại ruộng chưa tới 4.200 đồng/kg, giá này chỉ đủ trả tiền nhân công và tiền phân thuốc chứ không có lời.

Sang vụ HT này tôi tính đến chuyện giảm chi phí tối đa bằng cách chọn mua phân đơn của 3 loại N-P-K đem về tự phối trộn lại với nhau. Tuy có cực công một chút nhưng giá rẻ hơn mấy chục ngàn đồng/bao. Vụ này sử dụng gần 1,6 tấn phân các loại đã tiết kiệm được cả triệu đồng”.

Còn nông dân Trương Văn Thống ở xã Đông Bình, huyện Thới Lai, TP Cần Thơ cho biết: “Trung bình một vụ bón 3 đợt phân, để tiết kiệm chi phí 2 đợt đầu tôi bón phân đơn chứ không mua phân chuyên dùng, đợt bón thứ 3 và bón rước hạt mới chọn mua phân chuyên dùng vì lúc này lúa cần lượng phân để nuôi hạt”.

Ông Thống cho biết thêm, bón phân tự phối trộn nông dân có thể tăng giảm theo ý của mình, tránh tình trạng bón thừa gây lãng phí. Thời buổi giá cả leo thang, nông dân làm “đổ mồ hôi sôi nước mắt” mới có hạt lúa nhưng giá cả đầu ra lại quá bấp bênh nên cần tính toán để tiết giảm chi phí đến mức tối đa mới có lợi nhuận.

Nông dân mua phân đơn về tự phối trộn theo công thức riêng cho ruộng lúa của mình vừa hiệu quả vừa giảm chi phí

Theo chân nông dân các huyện Thới Lai, Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ (TP Cần Thơ) ra đại lý mua phân bón cho vụ lúa HT, đa phần thấy bà con chọn mua các loại phân đơn đem về tự phối trộn. Anh Võ Phúc Cường, chủ cửa hàng VTNN Phúc Cường ở huyê%3ḅn Vĩnh Thạnh cho biết: “Mỗi năm mua bán hơn 3.000 tấn phân bón các loại cho nông dân. Trong đó, riêng phân urê chiếm từ 500 – 700 tấn/vụ. Từ đầu năm đến nay giá phân tương đối ổn định nên đại lý cũng dễ làm ăn, mà nông dân cũng dễ thở”.

“Kỹ thuật ô khuyết”

Theo các nhà quản lý, trong 3 vụ lúa/năm ở ĐBSCL thì lãi cao nhất là vụ TĐ (do giá thời điểm này thường cao nhất trong năm), kế đến là vụ ĐX và cuối cùng là HT. SX vụ HT nông dân tốn chi phí rất nhiều nhưng năng suất lại rất thấp do thời tiết không thuận lợi. Vì vậy, nông dân phải biết tính toán thật kỹ, lựa chọn giống và phân bón thật hợp lý để hạn chế tình trạng cây lúa bị đổ ngã thì mới mong có lời.

Ông Phù Khí Nguyên, PGĐ Trung tâm KN-KN Kiên Giang cho biết, tùy theo nền đất và tùy theo vụ mà nông dân cần có sự điều chỉnh công thức bón phân cho phù hợp. Đối với đất làm 2, 3 vụ lúa/năm ở ĐBSCL thì trung bình lượng phân cần sử dụng khoảng 150 – 180 kg urê, 50 – 100 kg DAP, 30 kg kali. Nếu nông dân có bón lót phân lân đầu vụ (khoảng 300 kg/ha) thì lượng DAP cần dùng là 50 kg, còn urê thì nên sử dụng bảng so màu lá lúa để cân đối cho phù hợp.

Theo ông Nguyên, nếu là ruộng mới khai hoang thì nên sử dụng loại phân đơn, tự phối trộn để dễ tăng giảm theo nhu cầu. Tuy nhiên, việc sử dụng phân tự phối trộn rất dễ bón thừa, nhất là thừa đạm làm phát sinh sâu bệnh. Còn đối với nền ruộng đã thuần và có điều kiện thì nông dân nên sử dụng phân chuyên dùng vì đã được nghiên cứu tính toán kỹ công thức, phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của cây lúa.

Các nhà khoa học cũng khuyến cáo nông dân nên áp dụng “kỹ thuật ô khuyết” để xác định từng yếu tố phân bón như đạm, lân, kali có sẵn trong đất để quyết định lượng phân cần bón thêm cho phù hợp. Theo tính toán, để có được 1 tấn lúa, cây lúa cần hấp thụ 15 kg N (đạm), 6 kg P2O5 (lân) và 18 kg K2O (kali).

Như vậy, nếu năng suất lúa đạt 7 tấn/ha thì cây lúa cần 105 kg N, 42 kg P2O5 và 126 kg K2O. Trước khi tiến hành gieo sạ lúa, nông dân nên thiết kế 3 ô liền kề nhau (khoảng 5 x 5 m), mỗi ô sẽ không bón một loại phân (khuyết 1 trong 3 nguyên tố đa lượng nói trên) trong suốt mùa vụ, các khâu còn lại vẫn chăm sóc bình thường.

Đ.T.CHÁNH – LÊ HOÀNG VŨ

Đến khi thu hoạch, lấy năng suất lúa thực tế của từng ô nhân với lượng nguyên tố mà cây lúa cần hấp thụ để tính ra lượng phân đạm, lân, kali mà đất đã cung cấp. Sau cùng lấy tổng lượng nguyên tố mà cây lúa cần hấp thụ để đạt năng suất mà nông dân mong muốn (ví dụ 7 tấn/ha), trừ đi lượng phân mà đất đã cung cấp, còn lại là lượng phân bón cần phải bổ sung thêm. Đây là cách làm đơn giản, rẻ tiền nhưng rất hiệu quả, giúp nông dân có được công thức bón phân hiệu quả nhất.

Một Số Lưu Ý Trong Kỹ Thuật Canh Tác Lúa Vụ Hè Thu

GS TS Nguyễn Bảo Vệ

Bộ môn Khoa học cây trồng, Khoa NN & SHUD, Trường Đại Học Cần Thơ 

Giảm ngộ độc phèn cho lúa

Vùng đất trồng lúa tỉnh Kiên Giang ở đâu cũng có phèn, nhất là ở Tứ Giác Long Xuyên và Bán Đảo Cà Mau. Mặc dù phèn có khác nhau về mức độ nặng hay nhẹ và tầng phèn hiện diện ở những độ sâu khác nhau trong đất, nhưng nói chung là đất khá chua. Nông dân có thể đo độ chua của đất bằng cách lấy đất phơi khô, đâm nhuyển cho vào chai khoảng 100 g, sau đó thêm vào ¼ lít nước mưa, lắc đều trong khoảng 30 phút rồi để yên, dùng giấy đo pH ở phần nước trong trên mặt. Những vùng đất phèn, sau khi thu hoạch lúa Đông Xuân lớp đất mặt bị khô sẽ kéo độc chất phèn từ tầng dưới lên tầng mặt gây ngộ độc cho lúa vụ Hè Thu. Để tránh hiện tượng nầy cần có biện pháp sau: 

-          Cày ải không cho độc chất phèn kéo lên lớp đất mặt. Cày ải còn tạo lớp đất che phủ hạn chế việc tạo thêm phèn của tầng đất bên dưới.

-          Nếu pH lớp đất mặt dưới 5 cần bón từ 30-50 kg vôi nung/công lúc làm đất để cung cấp Ca, tăng cường khả năng hoá giải độc chất của cây lúa và bón lót từ 20-30 kg phân lân nung chảy/công để cố định độc chất phèn trong đất.

-          Bơm nước rửa phèn trước khi xuống giống. Dùng giấy đo pH kiểm tra nước trong ruộng trước khi sạ, khi pH trên 5,5 là được.

-          Sau khi ruộng ngập nước khoảng 2 tuần, cần xả bỏ nước, vì độc chất sắt trong dung dịch đất lúc nầy tăng cao gây độc cho lúa.

-          Chọn giống lúa có thời gian sinh trưởng từ 90-100 ngày, cứng cây, kháng rầy nâu, kháng bệnh đạo ôn, chống chịu phèn, mặn, cho năng suất cao, có dạng hình đẹp như: OM 6976, OM 5451, OM 7347, OM 8923, OM 5954 và OM 8232 

Tránh gây ngộ độc hữu cơ cho lúa

Khi cày vùi rơm rạ còn tươi vào đất ngập nước, vi sinh vật sẽ phân hủy chất hữu cơ nầy tạo ra nhiều độc chất như: acid hữu cơ, Hydrogene sulphide (H2S), ethylene (C2H4), methane (CH4). Những độc chất nầy gây chết rễ hoặc làm giảm khả năng hô hấp của rễ dẫn đến rễ hấp thu dưỡng chất kém. Để tránh cho lúa bị ngộ độc hữu cơ cần có biện pháp sau:

-          Phải có thời gian để cày vùi rơm rạ tươi vào đất ít nhất 3-4 tuần, rơm rạ sẽ phân hủy rồi mới trồng lúa được. Có thể phun thêm nấm Trichoderma để sự phân hủy nầy được nhanh chóng.

-          Nếu muốn trồng lúa ngay sau khi thu hoạch lúa Đông Xuân, phải cắt gốc rạ mang ra khỏi ruộng làm nấm hay ủ làm phân hữu cơ. Đốt đồng là biện pháp được chọn lựa cuối cùng.

-          Rút kiệt nước ruộng 2 lần vào lúc 2 tuần và 4 tuần sau khi sạ. Khi rút nước, phơi đất cho đến khi đất nứt chân chim mới bơm nước mới vào.

-          Bón vôi (loại vôi nung) lúc làm đất với liều lượng từ 30-50 kg/công. 

Tránh nắng nóng đầu vụ lúa

Trong tháng 3 và đầu tháng 4 chưa có mưa, nắng nóng làm nước thoát hơi qua lá rất nhanh, nhưng rễ hút nước lên không kịp làm cây lúa héo tạm thời giữa trưa, lúc đó cây lúa bị stress. Do đó, xuống giống vào thời gian nầy sẽ làm cây lúa hấp thu dinh dưỡng kém, dễ bị sâu bệnh, chậm phát triển. Kết quả nghiên cứu nhiều nơi cho thấy xuống giống lúa vào cuối tháng 4, đầu tháng 5 cho năng suất cao nhất, và khi thu hoạch thường rơi vào gian đoạn hạn Bà Chằng, nắng ráo nhẹ công phơi lúa.  

Hạn chế lúa đổ ngã

Cây lúa đổ ngã ảnh hưởng đến quang hợp của lá, quá trình tạo hột bị đình trệ do sự vận chuyển chất khô bị trở ngại, tỷ lệ hạt bị lép và lửng gia tăng. Khi lúa ngã, bông lúa ngập trong nước làm hạt nẩy mầm, hư thối do bệnh tấn công, giảm chất lượng gạo. Do đó, lúa ngã có năng suất thấp, chất lượng hạt gạo kém và gây khó khăn trong thu hoạch nhất là thu hoạch bằng máy. Nguyên nhân làm cho cây lúa đổ ngã là do lóng vươn dài, thân và bẹ lá yếu không mang nổi bông. Vào vụ Hè Thu nắng ít, mưa gió nhiều cây lúa đổ ngã nghiêm trọng, cần có biện pháp khắc phục như sau:

-          Lúa ngã bật rễ là do nền đất mềm nhảo, phải rút nước giữa vụ để đất được nén dẽ.

-          Không sạ quá dầy làm lúa cạnh tranh ánh sáng vươn cao, lóng dài, yếu ớt, vách tế bào mỏng dễ bị gảy.

-          Không bón dư thừa phân đạm, vì thế làm cho tế bào giãn dài quá độ nên lóng dài, thân yếu dễ đổ ngã.

-          Bón phân kali 3-5 kg K2O/công. Kali giúp vận chuyển tinh bột đến hạt, là chất góp phần làm gia tăng độ dày và độ chặt của thân, duy trì sức trương của tế bào, chống lại đổ ngã.

-          Chọn giống lúa cứng rạ, lóng ngắn. 

Ngăn chận ốc Bưu Vàng tấn công lúa

Ốc Bưu Vàng là dịch hại khá nghiêm trọng trong canh tác lúa. Phải có biện pháp canh tác tổng hợp để hạn chế được sự thiệt hại do ốc bưu vàng gây ra. Chỉ hy vọng hạn chế chứ không thể diệt chúng một cách triệt để được. Biện pháp như sau:

-          Đào rãnh thu gom ốc trong ruộng và xung quanh ruộng thường xuyên. Cắm cọc nhử ốc đến đẻ trứng mà diệt. Thả vịt vào ruộng ăn ốc.

-          Ngăn ốc vào ruộng bằng cách dùng lưới chắn những chỗ có đường nước chảy vào ruộng.

-          Ruộng có nhiều ốc thì phải tăng lượng giống gieo sạ lên từ 5-10% so với những ruộng bình thường khác để trừ hao hụt do ốc gây hại sau nầy.

-          Ốc gây hại nhiều lúc cây lúa còn nhỏ, chỉ nên để mực nước ruộng sâu khoảng 2-3 phân.

-          Những ruộng đang bị ốc gây hại nhiều, có thể dùng thuốc diệt ốc rải vào những chỗ có nhiều ốc.

Tăng khả năng cung cấp dinh dưỡng của đất

            Độ phì của đất giữ vai trò quan trọng trong duy trì năng suất lúa, nhất là lúa Hè Thu. Sau vụ Đông Xuân, đất đã cạn kiệt dinh dưỡng hữu dụng, cần được phục hồi. Không thể nào chỉ dùng phân bón để thay thế độ phì tự nhiên của đất mà tạo ra năng suất mong muốn được. Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy độ phì của đất đóng góp vào năng suất lúa trên 50%, nghĩa là dinh dưỡng mà cây lúa hấp thụ có nguồn gốc từ đất chiếm trên 50%. Do đó, cần phải thực hiện những biện pháp sau đây:

-          Cày ải phơi đất tạo điều kiện cho vi sinh vật háo khí trong đất hoạt động. Ông bà ta có câu “một cục đất nỏ bằng một giỏ phân”. Phơi ải đất ít nhất cũng phải được vài tuần. Ở vùng đất phèn, trong thời gian phơi ải phải giữ nước trong mương trên tầng phèn để tránh xì phèn (nhờ cán bộ kỹ thuật địa phương xác định độ sâu tầng phèn).

-          Khi đất còn ẩm dùng máy cày cày sâu 15-20 cm. Cày sâu giúp rễ lúa ăn sâu, lấy được nhiều dinh dưỡng từ đất, giảm được phân bón. Cày phải đúng lúc, không cày khi đất còn quá ướt hay để đất quá khô. Hiện nay, phần lớn đất chỉ được xới cạn nên tầng canh tác mỏng chỉ 8-10 cm. 

-          Nông dân trồng lúa có bón phân kali nhưng còn rất ít, chỉ khoảng một bao KCl/ha (25 kg K/ha), trong khi trung bình để có 1 tấn lúa, cây lúa cần từ 17 – 30 kg kali. Điều nầy dẫn đến sự suy thoái kali trong đất. Phải hoàn trả lại đủ kali cho đất.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Kỹ Thuật Trồng Vừng Chống Hạn Vụ Hè Thu trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!