Đề Xuất 3/2023 # Kỹ Thuật Trồng Trám Đen — Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam # Top 9 Like | Vitagrowthheight.com

Đề Xuất 3/2023 # Kỹ Thuật Trồng Trám Đen — Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Kỹ Thuật Trồng Trám Đen — Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

by

TRÁM ĐEN

Tên khoa học: Canarium tramdenum Dai & Ykovl.

Họ thực vật: Trám (Burseraceace)

1. Đặc điểm hình thái

Trám đen là cây gỗ lớn, cao 25-30m, đường kính 40-50cm. Thân tròn thẳng, gốc hơi có múi, phân cành cao. Tán dày, rộng, thường xanh. Vỏ màu nâu nhạt, mùi thơm hắc, thịt vỏ có nhựa màu đen.

Lá kép lông chim một lần lẻ, xanh lục sẫm, bóng, gốc hơi lệch.

Cụm hoa chuỳ dài hơn lá, hoa nhỏ màu trắng hay vàng nhạt, có lá bắc dạng vảy.

Quả hạch hình trứng, dài 3,5-4,5cm, rộng 2-2,5cm, khi chín màu tím đen. Nhân hạch 3 ô không đều. Mùa hoa tháng 4-5, quả chín tháng 10-12.

2. Đặc tính sinh thái

Trám đen phân bố trong rừng tự nhiên lá rộng ẩm thường xanh ở miền Bắc và cả Tây Nguyên ở độ cao dưới 1000m so với mực nước biển, nhiệt độ bình quân 20-24oC, lượng mưa 1500-2500 mm. Đôi khi mọc tập trung thành đám lớn gần thuần loài trên đất sâu tầng dày, ẩm, thoát nước ven sông, chân đồi thấp, bằng nhưng cũng có khả năng chịu được đất khô, lẫn sỏi đá. Cây thường được giữ lại hoặc trồng quanh vườn nhà ở vùng đồi núi thấp các tỉnh phía Bắc.

Cây ưa sáng, mọc nhanh, tái sinh hạt và chồi rất mạnh. Cây con mọc khoẻ và chịu bóng. Ưa đất còn tính chất đất rừng, mùn khá, pH=4-5.

3. Giống và tạo cây con

Nguồn hạt trám đen cũng rất nhiều nhưng phải thu lấy giống ở cây ưu trội từ 10-15 tuổi, thân thẳng, tán rộng, đã có 2 mùa quả trở lên và sai quả. Cần thu hái hạt giống ở rừng giống chuyển hoá hay rừng giống đã được công nhận.

Chọn thu những quả mập, cùi dày, vỏ có màu hơi tím, sau đó ủ quả 2-3 ngày cho chín đều. Ngâm quả trong nước 3 sôi 2 lạnh (khoảng 60oC) trong 2-3 giờ, vớt ra, dùng dao rạch dọc quả để tách vỏ lấy hạt và tốt nhất là đem gieo ngay.

Có thể bảo quản hạt bằng cách hong phơi khô trong râm rồi cho vào chum vại để hở miệng đặt nơi cao ráo, thoáng mát; hoặc trộn với cát có độ ẩm 5-8% có thể giữ được sức nảy mầm trong 3-4 tháng.

Ngâm hạt trong nước ấm 30-40oC khoảng 8 giờ, vớt ra rửa sạch, ủ trong túi vải, xếp trong nhà hoặc nơi kín gió. Khi hạt nứt nanh nhú mầm (khoảng 20 ngày) đem cấy vào bầu. Cũng có thể gieo hạt trên cát ẩm sau 10-15 ngày hạt nảy mầm đem cấy vào bầu mà không cần ủ.

Vỏ bầu bằng Polyetylen kích cỡ 15x20cm, thủng đáy. Ruột bầu tốt nhất là đất mặt dưới rừng trộn thêm 5-10% phân chuồng hoai và 1-2% supe lân theo khối lượng.

Cấy xong cắm ràng che bóng 50% và tưới ẩm. Tưới nước đủ ẩm, làm cỏ phá váng và dỡ bỏ dàn che đến khi cây đạt 7-8 tháng tuổi, cao 60-70cm, đường kính gốc 0,6-0,8cm, sinh lực tốt đem đi trồng.

4. Trồng và chăm sóc rừng

Thời vụ trồng vào tháng 2-3 hoặc tháng 7-8, khi trời râm mát, đất đủ ẩm.

Trồng toàn diện, phát thực bì, cuốc hố 40x40x40cm, bón lót 1-2kg phân chuồng hoai có trộn 0,05-0,1kg NPK (5:10:3) cho mỗi gốc. Mật độ 400-500 cây/ha, cự ly cây cách cây 4-5m, hàng cách hàng 5m. Hai, ba năm đầu trồng xen lạc, lúa, đỗ, sắn, những năm sau xen cây cố định đạm như cốt khí, đậu thiều.

Trồng theo đám quanh vườn nhà, cuốc hố 50x50x50cm, bón lót 2-3 kg phân chuồng hoai có trộn 0,05-0,1kg NPK (5:10:3) cho mỗi hố. Mật độ 300-400 cây/ha, cự ly cây cách cây 4-5m, hàng cách hàng 6m. Trồng xen cây rau màu hoặc cây ăn quả giữa các hàng cây và đám cây.

Chăm sóc 3 năm liền: Năm đầu 1-2 lần, phát thực bì, dẫy cỏ quanh gốc, xới vun gốc với đường kính 0,7-0,8m.

Năm thứ hai 2 lần, vào vụ Xuân và cuối Thu, cách chăm sóc như năm đầu và có bón thêm 0,05-0,1kg NPK (5:10:3) cho mỗi gốc vào lần 1.

Năm thứ ba chăm sóc 2 lần giống năm thứ 2 nhưng mở rộng đường kính xới dẫy quanh gốc rộng 1-1,2m.

Tỉa thưa cây xấu, cong queo, sâu bệnh khi rừng 6-7 tuổi. Bón thúc 6-8kg phân chuồng hoai + 1kg NPK (5:10:3) cho mỗi gốc theo 3 hốc cách đều, cách gốc 0,8-1m để nuôi dưỡng cây.

Không để người và gia súc phá hoại. Có biện pháp phòng chống cháy, phòng trừ sâu bệnh hại.

5. Khai thác, sử dụng

Trám đen cũng như trám trắng là cây đa tác dụng, vừa cho gỗ, vừa lấy nhựa và cho quả ăn được.

Gỗ có tỷ trọng 0,73, xếp nhóm VII, màu xám trắng, thớ mịn, vân không rõ, mềm nhẹ, dễ nứt nẻ, dễ gia công chế biến, dùng làm gỗ bóc, gỗ dán, làm diêm, bút chì, bột giấy, sau ngâm tẩm làm nhà, đóng đồ mộc tốt.

Nhựa có chứa Côlôphan và tinh dầu gần giống như nhựa Trám trắng, dùng chế sơn, véc ni, dầu thơm, dược liệu, làm hương, keo,…

Quả ngoài cách ăn dân giã như dùng để luộc, muối, nấu với thịt, cá làm thức ăn còn dùng để làm ô mai, mứt, nước giải khát. Mỗi cây 10-15 tuổi có thể cho 50-70 kg quả/ năm.

Thu quả: Rừng 8 tuổi có thể thu hoạch, nếu chăm sóc tốt đạt 1-2 tấn quả/ha. Tuổi rừng càng tăng lượng quả cũng nhiều. Chu kỳ sai quả 2-3 năm, có thể thu hoạch kéo dài 50 năm.

Chích nhựa: Có thể đẽo máng ở gốc kết hợp lấy nhựa hàng ngày nhưng không nên chích kiệt để nuôi dưỡng cây lấy quả và cho gỗ.

Lấy gỗ: Rừng 30-40 tuổi cần chặt trắng lấy gỗ và trồng lại. Gỗ khi khai thác, cắt khúc, bóc vỏ và ngâm tẩm bằng thuốc bảo quản ngay để tránh mối, mục rồi đưa vào chế biến sử dụng.

Tin mới nhất

Các tin khác

Kỹ Thuật Trồng Cây Huỷnh — Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam

by

HUỶNH

Tên khác: Huệng

Tên khoa học: Tarrietia javanica  Blume

hoặc Tarrietia cochinchinensis  Pierre

Họ thực vật: Trôm (Sterculiaceae)

1. Đặc điểm hình thái

Cây gỗ lớn, đường kính ngang ngực có thể đạt trên 1m, chiều cao 25-35m. Thân tròn, thẳng, gốc có bạnh vè, vỏ trắng bạc, có nhựa trong. Lá kép chân vịt, có 3-7 lá chét, mặt trên nhẵn, mặt dưới phủ lông trăng bạc. Khi còn nhỏ cây có lá đơn nguyên và xẻ thuỳ chân vịt. Hoa tự viên chùy, đơn tính, mọc nách lá, màu hồng. Hoa cái có 5 lá noãn rời sau mỗi lá noãn hình thành 1 quả có cánh, cánh dài 7-8cm, rộng 1-2cm, mỗi quả có một hạt. Huỷnh 25-30 tuổi đã ra hoa, có quả và thường hàng năm ra hoa rất nhiều. Ra hoa tháng 4-5, quả chín vào tháng 8-9.

2. Đặc tính sinh thái

Huỷnh phân bố từ nam đèo Ngang đến Tây Nam Bộ nhưng gặp nhiều nhất ở Quảng Bình. Thường gặp ở độ cao dưới 300m so với mực nước biển, không quá xa biển, nơi có nhiệt độ bình quân năm 22-26oC, lượng mưa bình quân 1500-2500mm.

Huỷnh ưa sáng, mọc tương đối nhanh, chiếm tầng trên của rừng, thường sống hỗn loài với Gụ, Trường, Trám, Chò, Ràng ràng, Chẹo, Bưởi bung. Huỷnh thích hợp với các loại đất vàng đỏ phát triển trên đá mẹ granít, phiến thạch mica, phiến thạch sét. Cây ưa đất tốt, sâu ẩm, còn tính chất đất rừng. Tuy nhiên nó cũng sống được ở những nơi có tầng đất mặt nông mỏng 20-40cm. Khi nhỏ Huỷnh thích hợp với ánh sáng nhẹ. Huỷnh tái sinh khá trong vùng phân bố tự nhiên, đặc biệt rừng sau khai thác có độ tàn che 0,3-0,8, số lượng cây tái sinh 1000-1500cây/ha với đủ các cấp chiều cao.

Lượng tăng trưởng bình quân hàng năm của Huỷnh trồng đạt 0,9-1cm về đường kính, 80-90cm về chiều cao. Từ tuổi 5 đến tuổi 12 có tốc độ sinh trưởng chiều cao và đường kính nhanh nhất, đạt 90-130cm và 1,4-2cm/năm. Huỷnh sinh trưởng tương đối nhanh, đã trồng có kết quả ở Ba Rền – Quảng Bình.

3. Giống và tạo cây con

Thu hái hạt, gieo hạt: Tháng 8-9 quả chín, cần thu hái kịp thời khi vỏ quả chuyển từ màu xanh sang màu nâu. Huỷnh sai quả, quả có cánh, nếu không thu hái kịp, quả sẽ phát tán theo gió. Hái quả về và đem ủ 4-5 ngày. 1 kg hạt có 1500-1700 hạt.

Đất vườn được xử lý, bón lót, lên luống, làm rãnh như đối với việc gieo các loài cây lá rộng khác.

Sau khi hạt nứt nanh có thể gieo theo rạch hoặc gieo vãi trên luống. Sau khi gieo, che phủ mặt luống để giữ ẩm. Tỷ lệ nảy mầm đạt 80-90%. Khi hạt nảy mầm, đem cấy vào bầu.

Vỏ bầu polyetylen, có đường kính 7-8cm, chiều cao 10-12cm. Ruột bầu gồm 80% đất vườn ươm + 20% phân chuồng hoai.

Che 40% ánh sáng cho cây, sau 3 tháng giảm còn 10-15%, sau 5 tháng có thể bỏ dàn che. Tùy theo thời vụ trồng, tiêu chuẩn cây con khác nhau.

Trồng cây con 6 tháng tuổi, có chiều cao 20-25cm vào vụ Xuân (tháng 2-3). Trồng cây con 9 tháng tuổi, có chiều cao 30-35cm vào vụ Thu.

4. Trồng và chăm sóc rừng

Áp dụng tiêu chuẩn ngành 04TCN-2006 – quy trình kỹ thuật trồng rừng Huỷnh của Bộ NN&PTNT.

Trồng Huỷnh trên đất còn có tính chất đất rừng, thoát nước, phát triển trên đá bazan, riolit, phấn sa, phiến sét, granit.

Nếu trồng theo băng kết hợp với cây nông nghiệp Huỷnh sẽ sinh trưởng tốt hơn.

Có thể trồng theo rạch nhưng phải chặt hết tầng cây cao, chỉ để lại tầng cây bụi, cây nhỏ có chiều cao 5-7m, phát rạch rộng 2-3m.

Trên rạch trồng một hàng cây, hàng cách hàng 7-10m, cây cách cây 2,5-3m. Mật độ 400-600 cây/ha.

Huỷnh thời kì đầu chịu bóng nhẹ, sau lớn lên dần ưa sáng và ưa sáng hoàn toàn. Vì vậy, khi chăm sóc phải đảm bảo cho Huỷnh khi còn nhỏ không bị phơi nắng hoàn toàn nhưng cũng không bị cớm rợp.

5. Khai thác, sử dụng

Gỗ Huỷnh có màu hồng sáng, phẩm chất tốt, giác lõi phân biệt. Giác màu nâu, lõi màu đỏ, cứng, nặng, tỷ trọng 0,65-0,72. Gỗ có thớ mịn, thẳng, bền, ít cong, vênh, không bị mối mọt, chịu được va đập mạnh, chịu mặn, thường được dùng trong xây dựng, đóng tàu thuyền và các đồ đạc trong gia đình.

Công ty Lâm nghiệp Long Đại – Quảng Bình đã trồng được hơn 400 ha rừng Huỷnh có lâm phần đạt tới 25 tuổi. Tăng trưởng bình quân về đường kính là 0,7-0,8 cm/năm, về chiều cao là 0,6-0,8m/năm. Cây sinh trưởng tốt, có nhiều triển vọng.

Tin mới nhất

Các tin khác

Kỹ Thuật Trồng Giáng Hương — Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam

by

GIÁNG HƯƠNG

Tên khác: Giáng hương quả to, đinh hương

Tên khoa học: Pterocarpus macrocarpus Kurz.

Họ thực vật: Đậu (Fabaceae)

(Nguồn chính: Hà Thị Mừng, 2000)

1. Đặc điểm hình thái

Cây gỗ lớn, rụng lá, cao đến 25-30 m, đường kính có thể đạt 90cm hoặc hơn nữa. Tán cây hình ô, cành non có lông mịn, cành già nhẵn. Vỏ màu nâu xám, dày trung bình 1,5-2 cm, nứt dọc, bong vảy lớn, thịt vỏ màu hơi vàng, khi vạc vỏ chảy nhựa màu đỏ tươi.

Lá kép lông chim một lần lẻ, mọc cách, mang 7-13 lá chét xếp so le. Hoa màu vàng, mọc thành chùm ở nách lá. Mỗi chùm hoa dài 7-10 cm, mang 20-25 hoa. Quả hình tròn dẹt, đường kính 4,5-7,0 cm. Khoang  cứng nổi lên ở giữa, chứa 1-3 hạt. Hạt hình lưỡi liềm, khi chín có màu nâu, dài 0,7-1,0 cm, rộng 0,3 – 0,5cm.

2. Đặc tính sinh thái

Giáng hương phân bố ở Myanma, Thái Lan, Lào, Cămpuchia và Việt Nam.

Trên thế giới, Giáng hương có mặt trong 2 kiểu rừng chính là rừng hỗn loài nửa rụng lá (rừng bán thường xanh) và rửng rụng lá mà chủ yếu là rừng thưa cây họ Dầu (rừng khộp), đất phát triển trên nhiều loại đá mẹ khác nhau nhưng tốt nhất là trên đất có thành phần cơ giới nhẹ và thường sống ven sông nơi gần nguồn nước. Thường mọc ở độ cao từ 100-800m so với mực nước biển, chịu được điều kiện mưa nhiều và biên độ nhiệt lớn, nhiêt độ tối cao tuyệt đối 37,7-44,4oC và tối thấp tuyệt đối 4,4-11,2oC. Lượng mưa bình quân 889-3572 mm/năm, mọc tốt ở vùng có lượng mưa 1270-1520 mm/năm.

Ở Việt Nam, Giáng hương cũng có mặt trong hai kiểu rừng là rừng khộp và rừng bán thường xanh, ở các tỉnh Tây Nguyên, Nam Bộ như Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Phú Yên, Đồng Nai, Tây Ninh. Thường thấy ở những nơi có độ cao so với mực nước biển từ 20 m đến 680 m, tập trung ở những nơi có địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc 2-100, nhiệt độ trung bình năm 21,9-26,9oC, nhiệt độ tối cao tuyệt đối 36-42,70C, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối 1,7-15,00C, nhiệt độ tối cao trung bình tháng nóng nhất 29,7-35,30C, nhiệt độ tối thấp trung bình tháng lạnh nhất 10,4-20,90C. Mọc trên nhiều loại đất như đất xám, đất đỏ bazan, chịu được điều kiện đất khô xấu thích hợp với những vùng có khí hậu chia thành 2 mùa mưa và khô rõ rệt.

 3. Giống và tạo cây con

Nguồn giống thu hạt từ cây mẹ tuyển chọn trong các rừng giống chuyển hoá đã được công nhận, có chiều cao từ 8 m và đường kính từ 20cm trở lên, thân thẳng, tán đẹp, tỉa cành tự nhiên tốt, không bị sâu bệnh hay cụt ngọn. Thu quả khi vỏ quả có màu nâu đem phơi trong 3-4 nắng nhẹ, dùng kéo cắt vỏ và tách hạt ra khỏi quả, 1000 hạt nặng 61-63 gam, hàm lượng nước trong hạt 12%, tỷ lệ nẩy mầm 83-85%. Để hạt trong túi nilông đem bảo quản ở 8oC.

Gieo ươm hạt từ tháng 12 đến tháng 2 tuỳ thuộc thời vụ trồng rừng. Xử lý hạt bằng cách ngâm hạt vào nước nóng 60oC trong 10 giờ, vớt ra ủ trong bao tải, hàng ngày rửa chua, chọn hạt nứt nanh cấy vào bầu.

Túi bầu nuôi cây làm bằng Polyetylen cỡ 11 x12 cm, đục 5 lỗ thoát nước mỗi bên. Ruột bầu gồm hỗn hợp 88% đất mặt vườn ươm +10% phân chuồng hoai +2% supelân tính theo khối lượng.

Tưới nước đủ ẩm, che bóng 50% trong 3 tháng đầu, sau đó tháo bớt còn 25%. Trong 4 tháng mùa khô mỗi ngày tưới một lần 6,5 lít nước/m2, vào buổi sáng.

Làm cỏ phá váng 15 ngày/lần. Trong 5 tháng đầu mỗi tháng tưới thúc 1 lần NPK (6:1:3), nồng độ 1-2%, 4 lít/1 m2. Từ tháng thứ 4 trở đi mỗi tháng đảo bầu 1 lần.

Tiêu chuẩn cây xuất vườn: Cây con 6 tháng tuổi, khoẻ mạnh, không bị sâu bệnh, không cụt ngọn, chiều cao tối thiểu 50cm, đường kính cổ rễ 5-7mm.

4. Trồng và chăm sóc rừng

Chọn nơi trồng có nhiệt độ bình quân năm 22-27oC, tối cao tuyệt đối 36-43oC, tối thấp tuyệt đối 1,7-14,1oC. Lượng mưa 1268-2172 mm/năm, lượng bốc hơi 867-1436 mm/năm. Độ cao tuyệt đối dưới 700m, độ dốc thích hợp dưới 10 độ. Đất xám phát triển trên sa thạch, phiến sét, granít và đất đỏ badan, chua, thành phần cơ giới từ nhẹ đến nặng, thoát nước tốt.

Trồng vào đầu tháng 6 đến giữa tháng 8, tránh tiểu hạn vào giữa tháng 7.

Thực bì rừng kiệt hay phục hồi sau rẫy xử lý bằng cách phát dọn theo băng hẹp đảm bảo độ tàn che ban đầu 0,25-0,5, sau đó mở dần đến năm thứ 4 trở đi có thể mở tán hoàn toàn.

Hố đào 30x30x30cm trước khi trồng 15-20 ngày, kết hợp bọn lót 150 gam phân hữu cơ vi sinh cho 1  hố.

Trồng bằng cây con có bầu 6 tháng tuổi, trồng thuần loài hoặc hỗn giao với các loài Căm xe, Cẩm liên, Cà chít, Chiêu liêu, Bằng lăng, Trâm, Kơ nia. Mật độ 1250 cây/ha, cự ly 2x4m.

Chăm sóc năm đầu 2 lần, lần 1 sau trồng 1 tháng, lần 2 vào tháng 12 chủ yếu làm cỏ vun gốc. Từ năm thứ 2 trở đi mỗi năm làm cỏ, phát luỗng thực bì xâm lấn, vun xới gốc 3 lần vào cuối mùa khô, giữa mùa mưa và cuối năm.

5. Khai thác, sử dụng

Gỗ có lõi và giác phân biệt, giác màu vàng nhạt, lõi màu nâu vàng, vân đẹp, bền và có mùi thơm dễ chịu, khả năng hấp sấy khô chậm nhưng dễ khô kiệt, lõi cứng hơi khó gia công. Gỗ nặng trung bình, khối lượng riêng của gỗ khô là 0,73-0,80 g/cm3, thuộc loại gỗ quý, nhóm I dùng trong xây dựng, đóng đồ dùng cao cấp, đóng bàn ghế, tủ hòm, làm ván sàn,…

Cây có dáng đẹp, hoa thơm được trồng làm cây cảnh trong công viên hoặc ven đường phố, đặc biệt rễ có vi sinh vật cộng sinh có khả năng cố định đạm cải tạo đất.

Vỏ có chứa tanin và nhựa màu đỏ có thể dùng để nhuộm quần áo.

Ở Băng Cốc cây trồng 8 tuổi cao 7,28m, đường kính đạt 11,58cm, đến 18 tuổi đạt 14,9m về chiều cao và 25,9cm về đường kính.

Ở nước ta Giáng hương 39 tuổi trồng thuần loài trên đất đỏ ba zan có chiều cao khoảng 22m, đường kính từ 20-28 cm, cây lớn nhất là 48,4cm đạt kích cỡ gỗ lớn dùng trong xây dựng.

Thử nghiệm trồng 1998 ở Krông Pach, ĐắkLắk trên đất đỏ bazan, sau 5 năm tỷ lệ sống 100%, cây cao 7,1m, đường kính 9,2cm chứng tỏ ở giai đoạn này khả năng sinh trưởng của Giáng hương là khá tốt.

Thử nghiệm trồng năm 1947 ở Eakmat, Buôn Mê Thuột, Dak Lak trên đất đỏ bazan có độ phì cao vừa mới phát dọn rừng hỗn giao lá rộng nghèo kiệt. Kết quả sau 52 năm cây đạt 16m về chiều cao và 28,5cm về đường kính, nếu so với Căm xe cũng trồng ở khu vực này lượng tăng trưởng bình quân năm của Giáng hương có kém hơn chút ít nhưng vẫn đạt được mức sinh trưởng khá.

Tin mới nhất

Các tin khác

Kỹ Thuật Trồng Keo Lá Tràm — Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam

by

Tên khác: Tràm bông vàng

Tên khoa học: Acacia auriculiformis A.  Cunn. ex Benth.

Họ thực vật: Trinh nữ (Mimosaceae)

1. Đặc điểm hình thái

Là cây gỗ nhỡ, chiều cao có thể hơn 25m, đường kính có thể tới 60cm. Thân tròn thẳng, tán rộng và phân cành thấp, cành thường phân nhánh đôi, vỏ dầy màu nâu đen.

Cây con ở giai đoạn 2-3 tuần kể từ khi nẩy mầm có 1-2 lá kép lông chim 2 lần chẵn được gọi là lá thật. Tiếp theo sau đó xuất hiện lá biến dạng trung gian phần đầu vẫn là lá kép, phần cuống phình ra tạo thành hình mũi mác thẳng, dài và rộng bản. Sau đó, lá kép bị mất hoàn toàn được thay thế bằng lá đơn         trưởng thành, mọc cách, mép lá không có răng cưa, phiến hơi cong như hình lưỡi liềm, gọi là lá giả. Loại lá này được tồn tại trong suốt thời gian sống của cây, lá dày, màu xanh thẫm, cuống ngắn có 3 gân gốc chạy song song dọc theo phiến lá.

Hoa tự hình bông dài 8-15cm, mọc ở nách lá gần đầu cành, tràng màu vàng nhiều nhị vươn dài ra ngoài hoa.

Quả đậu xoắn, hạt nằm ngang, tròn và dẹt khi khô màu nâu bóng, dây rốn dài, quấn quanh hạt. Khi còn non quả hình dẹt, mỏng, thẳng, màu vàng khi già chuyển sang mầu nâu nhạt, vỏ quả khô hình xoắn, mỗi quả có từ 5-7 hạt.

Khi chín vỏ quả khô và nứt ra, hạt vẫn được dính với vỏ bằng một sợi dây màu vàng ở rốn hạt. Hạt màu nâu đen và bóng, mỗi kg có 45.000-50.000 hạt.

2. Đặc tính sinh thái

Keo lá tràm phân bố tự nhiên chủ yếu ở phía Bắc bang Queensland và Northern Territory của Ôxtralia và nhiều vùng của Papua Niu Ghi Nê, kéo dài tới Irian Jaya và quần đảo Kai của Inđônêxia. Phạm vi phân bố nằm giữa vĩ độ 50 và 170 Nam, nhưng tập trung chủ yếu ở các vĩ độ từ 8-160Nam, độ cao tuyệt đối dưới 600m, phân bố nhiều nhất ở dưới 100m. Hiện nay Keo lá tràm đã được nhân rộng và gây trồng ở nhiều nước trên thế giới như Thái Lan, Trung Quốc, Malaixia, Philippin, Việt Nam, Ấn Độ,….

Keo lá tràm là loài cây ưa sáng mạnh, khả năng thích ứng rộng, chúng có thể sống được ở những vùng có mùa khô kéo dài từ 4-6 tháng, lượng mưa hàng năm chỉ khoảng 600-700mm, hoặc những vùng lạnh nhiệt độ xuống dưới 100C nhưng phát triển kém. Tuy nhiên, chúng sinh trưởng tốt ở những nơi có khí hậu nóng ẩm và cận ẩm, nhiệt độ trung bình năm trên 240C, nhiệt độ tháng nóng nhất từ 32-340C, tháng lạnh nhất từ 17-220C. Lượng mưa trung bình năm trong khoảng 2000-2500mm, và chỉ có từ 1-2 tháng mùa khô, độ cao từ 0-600m, tốt nhất ở độ cao dưới 100m so với mực nước biển.

Keo lá tràm là loài cây dễ gây trồng, thích nghi được với nhiều loại đất đai khác nhau như đất cát ven biển, đất đồi núi phát triển trên phiến thạch sét, phiến thạch mica, nai, granit, phù sa cổ…, với độ pH từ 3-9. Chúng thích nghi tốt với những nơi có tầng đất sâu ẩm, giàu dinh dưỡng và nơi có pH trung tính hoặc hơi chua. Tuy nhiên các cây họ Đậu nói chung và Keo lá tràm nói riêng nhờ có nốt sần có khả năng cố định đạm nên chúng không những có khả năng thích ứng tốt trên những loại đất xấu, thoái hoá, nghèo kiệt dinh dưỡng, nhất là nghèo đạm mà còn có tác dụng cải tạo đất rất tốt.

4. Giống và tạo cây con

Áp dụng tiêu chuẩn ngành QPN19-96 – quy phạm kỹ thuật tạm thời trồng rừng Keo lá tràm ban hành kèm theo quyết định số 1410 NN/QĐ ngày 20-8/1996 của Bộ NN& PTNT.

Cây 3-4 năm tuổi đã cho quả nhưng để đảm bảo thu được hạt có chất lượng tốt, chỉ thu quả ở những cây mẹ từ 5 tuổi trở đi trong các rừng giống, vườn giống đã được công nhận. Ưu tiên lấy giống của các xuất xứ Coen river, Mibini, Morehead river đã được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật để phục vụ trồng rừng.

Đặc biệt quan tâm sử dụng các giống mới được công nhận gồm các dòng AA1, AA5, AA9 cho các tỉnh vùng Đông Nam Bộ và những nơi có điều kiện tương tự; các dòng BVlt25, Bvlt83, Bvlt84, Bvlt85 cho Đông Hà – Quảng Trị, Ba Vì – Hà Nội; dòng Clt7 cho vùng Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ và những nơi có điều kiện tương tự; các dòng Clt19, Clt57, Clt64, Clt98, Clt133 cho Đồng Hới – Quảng Bình và những nơi có điều kiện tương tự; các Clt1F, Clt18, Clt26, Clt43, Clt171 cho Bầu Bàng – Bình Dương và những nơi tương tự.

Thời gian thu hái quả đối với các tỉnh miền Nam là tháng 2-3, còn với các tỉnh miền Bắc thu hái muộn hơn vào tháng 4-6. Quả thu về đem hong phơi khoảng 3 ngày cho vỏ quả khô đều, sau đó tách hạt bằng cách cho quả vào bao tải đập cho hạt tách ra, tiếp đến loại bỏ vỏ, tạp vật đem phơi hạt trong bóng râm 2-3 ngày, hạt khô (khi độ ẩm trong hạt còn khoảng 7-8%) được cất trữ trong túi ni lông, để nơi khô ráo thoáng mát, có thể giữ được sức nảy mầm 18 tháng.

Tỷ lệ chế biến khoảng 3-4kg quả cho 1kg hạt, tỷ lệ nảy mầm ban đầu có thể đạt 90%.

Hạt Keo lá tràm có lớp vỏ dày, cứng khó thấm nước và thấm khí do đó trước khi gieo phải được xử lý bằng nước nóng 1000C. Ngâm hạt trong nước sôi 1-2 phút, sau đó vớt ra ngâm vào nước lạnh qua đêm, vớt ra rửa chua xong ủ hạt trong túi vải sau 2-3 ngày hạt bắt đầu nứt nanh đem ra cấy vào bầu (trong thời gian ủ hạt phải tiến hành rửa chua hàng ngày). Có thể gieo hạt thẳng bầu hoặc gieo vãi trên luống mà không cần ủ hạt trong túi vải, cần lưu ý khâu phòng bệnh, nấm cho hạt trước khi gieo.

Ngoài tạo cây con từ hạt, có thể dùng phương pháp nhân giống sinh dưỡng để tạo cây con (giâm hom và nuôi cấy mô) do Keo lá tràm là cây có hệ số nhân giống bằng giâm hom cao. Hom phải được trẻ hoá, do đó cần phải xây dựng vườn vật liệu lấy hom. Vật liệu giâm hom sau khi thu về được xử lý để tạo hom, chọn những hom bánh tẻ, cắt bớt chiều dài chỉ để lại 10-15cm, lá được cắt bớt để hạn chế thoát hơi nước, để lại 2-3 lá/hom, cắt bỏ 2/3 phiến lá, gốc hom cắt vát chéo. Tiếp đó hom được khử nấm bằng dung dịch benlat 1-2% trong khoảng 5-10 phút thì vớt ra chấm thuốc kích thích ra rễ và cắm vào bầu đất hoặc cát đã được xử lý bằng Benlat. Hom được để trong lồng chụp có ni lông che kín để giữ ẩm, phía trên lồng chụp được che bằng lưới đen để tránh ánh sáng trực tiếp. Phải luôn đảm bảo giữ ẩm cho hom, liều lượng phun cần phải căn cứ vào thời tiết. Sau khoảng 2-3 tuần hom bắt đầu ra rễ, nếu được chăm sóc tốt tỷ lệ hom ra rễ có thể trên 90%.

Tuỳ theo mục đích mà tiêu chuẩn cây con đem trồng rừng có khác nhau, nếu trồng rừng phòng hộ cây cao 1-1,2m đường kính cổ rễ 1-1,5cm, còn trồng sản xuất thì cây cao 20-25cm, đường kính cổ rễ 0,3-0,4cm là đạt tiêu chuẩn.

5. Trồng và chăm sóc rừng

Có thể mở rộng gây trồng ở những nơi có lượng mưa bình quân năm 1200-1600mm, 2100-2500mm, nhiệt độ bình quân năm 22-24oC hoặc 28-30oC, nhiệt độ bình quân tháng nóng nhất 32-34oC, nhiệt độ bình quân tháng lạnh nhất 17-22oC, nhiệt độ tối cao tuyệt đối 34-40oC, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối 12-14oC, có 3-5 tháng mưa ít hơn 50mm, độ cao 250-500m so với mực nước biển, địa hình dốc 15-25o; loại đất phèn trung bình và nhẹ, đất cát, đất đỏ vàng và đất mùn trên núi, đất xói mòn trơ sỏi đá, đất thung lũng dốc tụ, đất có độ dày 50-100cm.

Diện tích đất tự nhiên toàn quốc thích hợp để trồng Keo lá tràm chiếm  24,5%, có thể mở rộng 45,5%, ít thích hợp 30,0%.

Ở nước ta Keo lá tràm thường trồng thuần loài, một số nơi cũng được trồng hỗn loài với một số cây như bạch đàn, Phi lao, trám, thông,…

Các tỉnh Bắc bộ và Thanh Hoá trồng vụ Xuân Hè (tháng 3-5), có thể trồng vụ Thu (tháng 7-8). Các tỉnh ven biển miền Trung trồng vụ Thu Đông (tháng 9-11). Các tỉnh Tây Nguyên và Nam bộ trồng đầu mùa mưa (tháng 4-6).

Ở những nơi đất bị ngập úng, đất cát bán ngập, đất phèn phải lên líp, trồng sau khi mùa mưa bắt đầu được 1 tháng là tốt nhất.

Nơi có thực bì cao và dày rậm phải phát dọn thực bì toàn diện hoặc theo băng, nơi thực bì thưa thớt thì chỉ cần phát dọn quanh hố trồng, làm đất cục bộ, cuốc hố với kích thước 40x40x40cm.

Mật độ trồng thường 2500-3000 cây/ha cho rừng thuần loài để phòng hộ, còn với rừng hỗn giao tuỳ theo mục đích mà bố trí cho phù hợp. Đối với rừng trồng sản xuất, mật độ trồng thích hợp là 1300-1600 cây/ha.

Là loài cây ưa sáng mạnh do đó sau khi trồng phải chú ý chăm sóc phát luỗng giây leo bụi rậm lấn át đảm bảo đủ ánh sáng cho cây trồng nhất là trong 3 năm đầu khi rừng chưa khép tán.

6. Khai thác, sử dụng

Keo lá tràm là cây thường xanh với tán lá khá dày, hệ rễ phát triển và có nấm cộng sinh cố định đạm nên có tác dụng chống xói mòn, phòng hộ và cải tạo đất rất tốt.

Là cây đa tác dụng, mọi sản phẩm thu từ cây đều có giá trị kinh tế. Gỗ  có tỷ trọng khá cao (0,6-0,75), màu nâu đỏ hoặc xám nâu, nặng và rắn, có vân thớ đẹp giống như gỗ cẩm lai nên có nhiều nơi gọi là gỗ cẩm lai giả. Gỗ được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như làm trụ mỏ, ván dăm, nguyên liệu giấy, xây dựng nhà cửa, làm đồ gia dụng và đồ mộc xuất khẩu,…. Cây cũng có thể dùng làm cây chủ để nuôi thả cánh kiến đỏ, làm giá thể để nuôi mộc nhĩ hoặc làm củi. Vỏ chứa tanin (hàm lượng 13%) có thể dùng cho nghề thuộc da.

Ngoài giá trị từ gỗ và vỏ, hoa Keo lá tràm còn có thể dùng để sản xuất nước hoa và phục vụ cho nghề nuôi ong vừa cung cấp mật ong cho thị trường vừa góp phần gián tiếp thúc đẩy quá trình thụ phấn cho cây trồng. Keo lá tràm có hoa màu vàng tươi và có thể ra hoa nhiều lần trong năm, có bộ tán khá đẹp, cây dễ trồng, ít sâu bọ nên có thể trồng làm cây xanh, cây trang trí trong các công viên và ven các đường phố.

Chu kỳ kinh doanh gỗ nhỏ để làm gỗ giấy, gỗ dăm thường 9-10 năm tỉa thưa 1 lần vào tuổi 5-6, chặt bỏ những cây mọc kém, bị chèn ép, chỉ để lại 800-1000 cây tốt phân bố đều trên 1 ha.

Để kinh doanh gỗ lớn có thể tỉa thưa 2 lần, lần đầu vào tuổi 6-8, cường độ tỉa từ 1/3 đến 2/5 số cây ban đầu, lần 2 tỉa vào tuổi 10-15, chỉ để lại 400-500 cây tốt nhất trên 1 ha sau 20-25 năm sẽ khai thác chính là phù hợp.

Năng suất thu được với kinh doanh gỗ nhỏ sau 9-10 năm có đạt được 12-15 m3/ha/năm, nơi đất tốt và trồng thâm canh có thể đạt 20 thậm chí 30 m3/ha/năm.

Sau khi khai trắng luân kỳ 1 Keo lá tràm tái sinh hạt rất mạnh với hàng vạn cây trên một ha, nếu cành nhánh để lại được rải đều và đốt thì tỷ lệ cây tái sinh còn cao hơn nhiều. Do vậy, nếu có biện pháp tỉa thưa nuôi dưỡng, xúc tiến tái sinh tự nhiên thích hợp có thể tạo thành rừng mới cho luân kỳ 2 mà không phải trồng lại.

Tin mới nhất

Các tin khác

Bạn đang đọc nội dung bài viết Kỹ Thuật Trồng Trám Đen — Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!