Cập nhật nội dung chi tiết về Kỹ Thuật Nhân Giống Đào mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Đào cảnh được nhân giống chủ yếu bằng phương pháp ghép mắt nhỏ có gỗ hay ghép nêm đoạn cành trên gốc ghép là cây đào ăn quả hoặc đào rừng. Yêu cầu kỹ thuật sản xuất giống đào chất lượng cao: Cây đào dòng tuyển chọn trong nước hoặc cây nhập nội (So) chăm sóc thành cây cho mắt ghép (S1).
1. Chọn cây lấy mắt ghép
Đây là một khâu rất quan trọng vì ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng của cây đào sau này, cây được chọn làm cây mẹ phải là cây có những đặc tính ưu tú nhất, có cành sinh trưởng khỏe, nhiều cành phân bố ở giữa tầng tán, cành không có mầm mống sâu bệnh. Nếu vận chuyển cành đi xa phải bảo quản trong điều kiện đủ ẩm, tránh nhiệt độ cao và cành đã được cắt hết bản lá chỉ để lại cuống. Cây phải có nhiều mắt ngủ để phục vụ cho việc lấy mắt, cây đào lấy mắt ghép nên lấy ở cây đào tơ, cây có 1 năm tuổi là tốt nhất. Nói chung, cây lấy mắt ghép phải là cây có hoa đẹp, màu sắc phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng hoặc cây lấy mắt từ cây nhập nội, có chất lượng tốt, có đặc tính ưu điểm nào đó mà đào trong nước không có được.
2. Chọn cây gốc ghép
Sử dụng giống đào ăn quả hoặc đào rừng, các loại hạt được thu gom, rửa sạch, phơi khô trong bóng râm, bảo quản trong chum, vại, túi nilon đến tháng 11 đem gieo. Trước khi gieo hạt được xử lý bằng cách ngâm ước trong 48 giờ, đãi sạch, ủ trong cát 30-40 ngày đến khi hạt nứt nanh. Gieo hạt đào trong vườn ươm với mật độ hạt cách hạt 3-4cm, cấy theo chiều dọc của hạt, lấp 1 lớp đất mỏng 3-4cm lên trên, sao cho khi tưới nước, vừa nhú đầu nhọn của hạt lên là vừa, thường xuyên giữ ẩm để hạt nảy mầm. Khoảng 15-20 ngày cây mọc, từ 1 hạt đơn hoặc đa phôi có thể cho ta 1-4 cây đào con.
Khi cây đào con ra lá non màu trắng như ra giá đậu xanh (nếu để lá thật có màu xanh mới nhổ cấy thì tỷ lệ chết rất cao) cần nhổ cấy ngay vào bầu nilon kích thước 13x15cm, có đục lỗ thoát nước xung quanh bầu và ở đáy bầu. Việc trồng cây vào trong bầu có nhiều ưu điểm: chăm sóc, bảo vệ cây giống có nhiều thuận tiện, đỡ công chi phí do không phải bứng bầu, cây giống khi trồng có bộ rễ hoàn chỉnh không bị tổn thương, tỉ lệ trồng sống cao, cây phát triển nhanh, khỏe, vận chuyển đi xa đảm bảo an toàn, giảm tỉ lệ hư hao.
Nguyên liệu đóng bầu: 70% đất phù sa + 30% phân chuồng mục hoặc 70% đất màu nâu đỏ ở tầng canh tác + 30% phân chuồng mục.
3. Phương pháp ghép
Đào được nhân giống chủ yếu bằng phương pháp ghép áp, ghép nêm, ghép mắt nhỏ có gỗ.
3.1. Ghép áp
Trên mặt cắt ngang của cây gốc ghép ta dùng dao tách (chẻ đôi) rồi đặt cành ghép vào và buộc lại, có thể trên 1 mặt cắt như vậy, ghép 2 cành để tăng tỷ lệ sống. Nhược điểm của phương pháp này là thao tác phức tạp, cần nhiều dụng cụ, tốn mắt ghép và mất nhiều công ghép.
– Cắt cành ghép: Bỏ phần ngọn và các mầm yếu, cắt thành đoạn dài 6-10cm và giữ lại 3 mắt, nếu cành khỏe thì giữ lại 2 mắt. tay trái cầm ngược cành ghép, tay phải cầm dao ghép, phần gốc của cành ghép hướng ra ngoài, tỳ phần gốc của cành, cắt vát hướng lên trên, ở vị trí phía dưới mầm thứ nhất cách mầm 1,5-2cm, cắt một mặt phẳng nghiêng hướng xuống dưới 1 góc nghiêng 450 sau đó lật cành ghép lại, tại phần phía sau mầm cách mầm 0,3cm, cắt bằng về phía trước, sâu đến giữa phần vỏ và phần gỗ, mặt cắt dài phải bằng phẳng, không cong.
– Cắt cây gốc ghép: Chọn độ cao từ 10-20cm, mặt vỏ phẳng, cắt phẳng gốc ghép, không làm xước vỏ cây. Chọn phía gốc ghép trơn nhẵn, vạch một vết dao nghiêng hướng lên trên, cắt đứt phần trên gốc ghép, hoặc cắt 1/3 lớp gỗ, vết dao cũng cắt nghiêng 450 như với mắt ghép.
– Cắm ghép cành: Khi đặt cành ghép vào gốc ghép, chú ý mặt cắt dài của cành ghép hướng vào trong, tầng sinh gỗ của cành ghép cân đối với tầng sinh gỗ của gốc ghép, nếu gốc ghép và cành ghép có kích thước khác nhau thì phải đặt một bên vỏ của cành ghép cân đối với một bên vỏ của gốc ghép, để cho tầng sinh gỗ của gốc ghép và cành ghép có một bên cân đối. Phải đưa cành ghép tới tận phần đáy miệng ghép của gốc ghép, sao cho phần cuối cành ghép tiếp xúc với phần đáy miệng ghép của gốc ghép để dễ liên kết.
Cuối cùng, dùng sợi nilon tự phan hủy quấn chặt quanh vết ghép theo đường vòng từ trên xuống, rồi lại từ dưới quấn lên, phủ kín mặt cắt ngang của gốc ghép, phủ kín đoạn cành ghép, thắt nút lại, không để cho nước vào.
* Chú ý:
+ Khi ghép phải dùng dao thật sắc để cắt phẳng, không xước, giập cành, thao tác cắt phải nhanh gọn.
+ Tầng sinh gỗ của cành ghép và gốc ghép phải cân đối, mặt tiếp xúc phải cố định và áp sát nhau.
+ Buộc phải chặt, đều tay để độ tiếp hợp chắc, bền.
3.2. Ghép nêm
– Trên mặt cắt ngang của cây gốc ghép, ta dùng dao tách (chẻ) đôi gốc ghép rồi đặt cành ghép vào và buộc lại, có thể trên một mặt cắt như vậy, ghép 2 cành để tăng tỷ lệ sống.
– Thời vụ ghép nêm thường vào mùa xuân và dùng cành được 1 năm tuổi để ghép.
– Cắt cành ghép: Bỏ phần ngọn và các mầm yếu, cắt thành đoạn dài từ 6-10cm và giữ lại 2-3 mầm. Tay trái cầm ngược cành ghép, tại 2 mặt bên của cành ghép, cách mầm cuối khoảng 0,5cm, cắt vát vào trong cành 1 đoạn dài 2-3cm tạo thành cái nêm. Độ dày của nêm phải vừa đủ để lắp vào vết tách của mặt gốc ghép, nếu dày quá thì ở gốc ghép sẽ có khe hở, cây ghép khó sống.
– Cắt gốc ghép: Dùng dao thật sắc cắt ngang thân tạo mặt cắt bằng phẳng, nhẵn. Sau đó chẻ tách mặt cắt theo đường kính đi qua tâm mặt cắt tạo ra miệng ghép. Tách miệng ghép không nên quá sâu để tránh cho gốc ghép bị tổn thương kéo dài.
– Cắm cành ghép: Dùng một cái nêm cắm nhẹ vào miệng ghép trước khi cắm cành ghép. Cắm xong cành ghép thì từ từ rút nêm ra, số cành ghép trên miệng ghép tùy thuộc vào mặt cắt rộng hay hẹp có thể cho 1 hoặc 2 cành ghép vào. Khi cắm cành ghép không nêm cắm ngập hết phần cắt mà để lộ 2-3mm ở phía trên để thuận lợi cho quá trình liền vết ghép.
– Buộc: Dùng nilon buộc chặt tạ mặt cắt gốc ghép và cành ghép, buộc kín mặt cắt gốc ghép, cành ghép, có thể chụp túi nilon sau đó buộc kín lại.
3.3. Ghép mắt nhỏ có gỗ
– Vị trí ghép: Ở vị rí 20-25cm tính từ mặt đất.
– Cách lấy mắt ghép: Vết cắt ở cành cho mắt ghép có kích thước giống với gốc ghép. Vết cắt dưới, cách mắt dưới khoảng 1/2cm, vết cắt trên cách mắt phía trên từ 1-1,5cm, từ đó lát cắt đưa xuống phía dưới dài khoảng 2,5cm, gặp lát cắt thứ nhất và cắt rời mắt ghép.
– Cắm mắt ghép thật khéo, tới đáy miệng ghép và gắn chặt với nhau, quấn chặt, đều tay bằng nilon.
– Cắt tháo dây buộc: Mùa xuân, hè sau khi ghép 15 ngày thì kiểm tra, nếu mắt ghép sống thì tháo dây. Mùa lạnh thì để 1,5 – 2 tháng mới tháo dây buộc và cắt phần trên nơi ghép của cây gốc ghép. Có thể để lại một đoạn dài làm cọc đỡ mầm ghép.
Phương pháp ghép mắt nhỏ có gỗ có ưu điểm vừa đỡ tốn công, vừa đỡ tốn mắt, có thể thực hiện cả vào tháng 6-7 khi cây đào đang sung sức.
4. Thời vụ ghép
Có thể giúp đào quanh năm nhưng ghép cây vào cuối mùa đông (tháng 1 tháng 2 hàng năm) vẫn là tốt nhất. Khi ta ghép vào cuối đông để cho mắt ghép ngủ nghỉ trên thân gốc ghép chờ tới vụ xuân sẽ phát triển, như vậy mầm ghép sẽ bật khỏe hơn.
5. Chăm sóc cây sau ghép
– Thường xuyên cắt bỏ các chồi mọc từ gốc ghép.
– Tưới duy trì độ ẩm thích hợp để cây phát triển.
– Phòng trừ nhện và các loại bệnh gây thối rễ, loét.
– Cấy giống sau khi ghép được 3 tháng, chồi ghép lên cao 30-50cm, tiến hành bấm ngọn để các cành cấp 1 phát triển, có thể mang đi trồng.
Nguồn: Giáo trình trồng và chăm sóc cây đào cảnh – Bộ NN&PTNT
Chuyện Những Người Nhân Giống Mai Anh Đào
Chuyện những người nhân giống mai anh đào
Mai anh đào, loài hoa đặc trưng của phố núi Đà Lạt luôn quyến rũ lòng người bởi sắc tím hồng miên man mỗi độ chào xuân. Ở đâu trên dốc núi mờ sương người ta cũng bắt gặp những vầng hoa mang màu nhung nhớ. Nhưng để có được những tán anh đào đẹp mơ màng ấy là công sức của không ít người đang lặng thầm làm công việc nhân giống mai anh đào, một việc tưởng dễ mà hoá ra không ít khó khăn.
Cây mai anh đào 1 năm tuổi chuẩn bị đưa ra đường phố. Sau mỗi dịp Tết Nguyên đán, khi những tán hoa rụng hết thì cây mai anh đào kết trái, những chùm trái sai trĩu trịt màu tím đen đậu đầy cành. Nhưng dù kết trái rất sai, điều kỳ lạ là rất ít có cây con tái sinh tự nhiên bên cạnh cây mẹ. Điều thắc mắc này đã được giải đáp khi chúng tôi tới tìm hiểu kỹ thuật trồng mai anh đào tại tổ sản xuất cây xanh thuộc Đội công viên cây xanh, chúng tôi quản lý công trình đô thị thành phố Đà Lạt. Anh Đinh Xuân Diệp, cán bộ kỹ thuật khẳng định:“Cây mai anh đào nếu để tái sinh bằng phương pháp tự nhiên thì chỉ đạt độ 1-2%, tỷ lệ nảy mầm không đáng kể. Trong khi chúng tôi được thành phố giao chỉ tiêu mỗi năm phải sản xuất 10 ngàn cây anh đào đủ chuẩn trồng đường phố nên đã phải mày mò, tìm kiếm và hiện đã có quy trình trồng mai anh đào có tỷ lệ nảy mầm cao hơn nhiều”. Mà khó khăn ở chỗ mai anh đào là loài cây mới chỉ thấy nở hoa kết trái tại Đà Lạt, chưa thấy nơi nào trồng nên cũng không có kỹ thuật chuẩn nhân giống. Chính vì vậy, cán bộ kỹ thuật của công ty phải mày mò tự tìm kiếm cách nhân giống. Việc đầu tiên là công nhân của tổ luôn chờ mỗi dịp anh đào kết trái là đi thu lượm hạt. Anh Phạm Tấn Dũng, người thường làm công việc thu trái kể: “Khi nào mai anh đào chín rộ, chúng tôi đi thu hoạch với yêu cầu là trái chín đen, hái càng nhiều càng tốt”. Sau đó, trái được chà lấy hạt, rửa sạch và phơi khô. Sau đó là quy trình quan trọng nhất, ủ để giúp hạt nảy mầm. Hạt mai anh đào được ủ trong liếp với giá thể đất sạch pha cát, trên phủ bao bố dày và được tưới nước hàng ngày để đảm bảo độ ẩm cần thiết. Sau 30 ngày, những vỏ hạt cứng được tách ra làm đôi, hạt anh đào nảy lên một chiếc mầm xinh xinh. Hoá ra, chiếc vỏ cứng ấy giúp bảo vệ nhân hạt nhưng cũng ngăn cản hạt nảy mầm tự nhiên. Những hạt này không nảy mầm đồng loạt mà tuỳ độ khoẻ của hạt sẽ nảy mầm trước hay sau nên cứ mầm nào nứt trước sẽ được gieo xuống đất trước. Sau khi nảy mầm, công nhân trộn giá thể dồn vào bao để gieo những chiếc mầm xuống. Giá thể trộn gồm phân bò, trấu đốt và xơ dừa trộn chung với đất sạch dùng để nuôi dưỡng những mầm anh đào trong suốt 1 năm. Thời điểm mới chuyển mầm vào túi, phải dùng cây dương xỉ cắm vào để giữ ẩm và tránh nắng cho mầm và tưới nước đều đặn. Trong 6 tháng đầu, cây được chăm sóc kỹ với chế độ tưới nước, bón phân và diệt trừ sâu bệnh hại. Tuy nhiên, sau đó cây mai anh đào được chuyển ra một khu riêng và không có chế độ chăm sóc, phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết bên ngoài vì theo anh Diệp, vì cây sẽ sống ngoài trời nên không chăm sóc sẽ giúp cây tự phát triển, giúp cây khoẻ và dễ thích ứng với đời sống của cây đường phố. Từ khi ủ cho hạt nảy mầm tới khi cây cao 1,5 m, đủ chuẩn ra trồng đường phố mất thời gian 1 năm. Cây mai anh đào đủ chuẩn này sau khi được trồng ra đường phố sau 1 năm là có thể ra hoa lần đầu và phát triển rất nhanh. Thành phố Đà Lạt luôn có vẻ đẹp đặc biệt, làm say mê long người khi khắp phố rực rỡ mai anh đào nở rộ. Nhưng đằng sau màu hoa ấy là công sức của không ít những con người thầm lặng đang ngày ngày chăm chút từng chiếc mầm hoa non nớt.
Sau mỗi dịp Tết Nguyên đán, khi những tán hoa rụng hết thì cây mai anh đào kết trái, những chùm trái sai trĩu trịt màu tím đen đậu đầy cành. Nhưng dù kết trái rất sai, điều kỳ lạ là rất ít có cây con tái sinh tự nhiên bên cạnh cây mẹ. Điều thắc mắc này đã được giải đáp khi chúng tôi tới tìm hiểu kỹ thuật trồng mai anh đào tại tổ sản xuất cây xanh thuộc Đội công viên cây xanh, chúng tôi quản lý công trình đô thị thành phố Đà Lạt. Anh Đinh Xuân Diệp, cán bộ kỹ thuật khẳng định:“Cây mai anh đào nếu để tái sinh bằng phương pháp tự nhiên thì chỉ đạt độ 1-2%, tỷ lệ nảy mầm không đáng kể. Trong khi chúng tôi được thành phố giao chỉ tiêu mỗi năm phải sản xuất 10 ngàn cây anh đào đủ chuẩn trồng đường phố nên đã phải mày mò, tìm kiếm và hiện đã có quy trình trồng mai anh đào có tỷ lệ nảy mầm cao hơn nhiều”. Mà khó khăn ở chỗ mai anh đào là loài cây mới chỉ thấy nở hoa kết trái tại Đà Lạt, chưa thấy nơi nào trồng nên cũng không có kỹ thuật chuẩn nhân giống. Chính vì vậy, cán bộ kỹ thuật của công ty phải mày mò tự tìm kiếm cách nhân giống. Việc đầu tiên là công nhân của tổ luôn chờ mỗi dịp anh đào kết trái là đi thu lượm hạt. Anh Phạm Tấn Dũng, người thường làm công việc thu trái kể: “Khi nào mai anh đào chín rộ, chúng tôi đi thu hoạch với yêu cầu là trái chín đen, hái càng nhiều càng tốt”. Sau đó, trái được chà lấy hạt, rửa sạch và phơi khô. Sau đó là quy trình quan trọng nhất, ủ để giúp hạt nảy mầm. Hạt mai anh đào được ủ trong liếp với giá thể đất sạch pha cát, trên phủ bao bố dày và được tưới nước hàng ngày để đảm bảo độ ẩm cần thiết. Sau 30 ngày, những vỏ hạt cứng được tách ra làm đôi, hạt anh đào nảy lên một chiếc mầm xinh xinh. Hoá ra, chiếc vỏ cứng ấy giúp bảo vệ nhân hạt nhưng cũng ngăn cản hạt nảy mầm tự nhiên. Những hạt này không nảy mầm đồng loạt mà tuỳ độ khoẻ của hạt sẽ nảy mầm trước hay sau nên cứ mầm nào nứt trước sẽ được gieo xuống đất trước.Sau khi nảy mầm, công nhân trộn giá thể dồn vào bao để gieo những chiếc mầm xuống. Giá thể trộn gồm phân bò, trấu đốt và xơ dừa trộn chung với đất sạch dùng để nuôi dưỡng những mầm anh đào trong suốt 1 năm. Thời điểm mới chuyển mầm vào túi, phải dùng cây dương xỉ cắm vào để giữ ẩm và tránh nắng cho mầm và tưới nước đều đặn. Trong 6 tháng đầu, cây được chăm sóc kỹ với chế độ tưới nước, bón phân và diệt trừ sâu bệnh hại. Tuy nhiên, sau đó cây mai anh đào được chuyển ra một khu riêng và không có chế độ chăm sóc, phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết bên ngoài vì theo anh Diệp, vì cây sẽ sống ngoài trời nên không chăm sóc sẽ giúp cây tự phát triển, giúp cây khoẻ và dễ thích ứng với đời sống của cây đường phố. Từ khi ủ cho hạt nảy mầm tới khi cây cao 1,5 m, đủ chuẩn ra trồng đường phố mất thời gian 1 năm. Cây mai anh đào đủ chuẩn này sau khi được trồng ra đường phố sau 1 năm là có thể ra hoa lần đầu và phát triển rất nhanh.Thành phố Đà Lạt luôn có vẻ đẹp đặc biệt, làm say mê long người khi khắp phố rực rỡ mai anh đào nở rộ. Nhưng đằng sau màu hoa ấy là công sức của không ít những con người thầm lặng đang ngày ngày chăm chút từng chiếc mầm hoa non nớt.
Diệp Quỳnh
Kỹ Thuật Nhân Giống Hoa Lan
Loài thích hợp cho trồng lan kinh doanh là Dendrobium, Mokara, Vanda, Phalaenopsis, Oncidium, Cattleya…đây là những loài cho hoa khoẻ, đẹp và bền cây, cho thu hoạch liên tục. Tuỳ theo mục đích trồng để cắt cành hay trồng chậu và tuỳ theo điều kiện khí hậu của vùng trồng, chọn giống trồng phù hợp thì mới có hiệu quả.
Có 2 phương pháp nhân giống lan đó là: nhân giống hữu tính và vô tính
1. Nhân giống hữu tính
Chọn những quả lan có kích thước to, tròn, không dị dạng, không sâu bệnh để làm hạt giống. Trong thực tế phương pháp này khó thành công vì phần lớn hạt thường bị chết do khó gặp nấm cộng sinh cần thiết để nẩy nầm. Trong điều kiện ẩm ướt (rừng già) hay vùng nhiệt đới mới đủ điều kiện cho hạt lan nẩy mầm.
2. Nhân giống bằng phương pháp vô tính
Nhân giống bằng cách tách chiết
Đối với lan đơn thân:
Tiến hành cắt chiết khi cây được 8 – 10 tháng tuổi, có nhiều tầng rễ. Khử trùng dụng cụ, cắt ngang phần gốc, để lại ít nhất từ 1 hoặc 2 đôi lá gần gốc, phần ngọn đảm bảo có 2 – 3 tầng rễ. Đối với hoa Mokara, Vanda… trong điều kiện cây cao 0,8 – 1 m mới tiến hành cắt chiết thì khả năng đâm tược mới càng nhanh và mạnh.
Phần ngọn sau khi cắt nhúng vào dung dịch thuốc trừ nấm Benlat C 1/2000 và dung dịch kích thích ra rễ NAA (Naphtalen Acetic Acid) 0,5ppm sau đó đem trồng vào chậu hoặc trồng lên luống.
Phần gốc sau một thời gian sẽ mọc 1 – 3 tược (chồi) mới gần chỗ cắt. Những tược này sau đó lớn lên, ra rễ. Có thể tiếp tục cắt phần ngọn các tược này đem trồng hoặc để đến khi ra hoa.
Đối với lan đa thân:
Tiến hành tách cây con (giả hành) khi cây cao khoảng 15 – 20 cm.
+ Ngâm chậu lan vào thau nước trong vòng 30 phút.
+ Gở rễ bám ngoài chậu bứng cây ra khỏi chậu.
+ Gở bỏ chất trồng củ, mục. Cắt rễ hư thúi.
+ Dùng đèn cồn để khử trùng dụng cụ cắt chiết.
+ Cắt từng đơn vị 2 – 3 giả hành ở vị trí thích hợp.
+ Sau đó nhúng vào dung dịch nấm bệnh và kích thích ra rễ rồi trồng vào chậu.
+ Trồng từng đơn vị vào chậu mới.
3. Nhân giống bằng nuôi cấy mô
Nuôi cấy mô là phương pháp nhân giống phổ biến hiện nay được áp dụng trên cây lan và nhiều loại cây khác. Do ưu điểm là cây con sạch bệnh, khả năng nhân gống nhanh.
Vật liệu nuôi cấy có thể từ đỉnh sinh trưởng của cây con được ươm từ hạt hoặc cây đã trưởng thành. Các giai đoạn nuôi cấy: khử trùng mẫu, đưa cấy vào môi trường MS (môi trường cơ bản nuôi sống cây), môi trường nhân chồi, môi trường tạo rễ, đem ra trồng. Toàn bộ quá trinh từ khi bắt đầu đến khi đưa cây con ra trồng là khoảng 6 tháng. Càng về sau thời gian sản xuất cây con càng nhanh.
Kỹ Thuật Nhân Giống Địa Lan
Trong tự nhiên, lan Cymbidium có 2 phương thức sinh sản cùng tồn tại song song: vô tính và hữu tính. Nếu gặp những điều kiện không thích hợp để tạo hoa, quả, hạt, cây sẽ xúc tiến mạnh việc nhảy chồi con từ các giả hành, gọi là sinh sản vô tính hay sinh sản sinh dưỡng. Ngược lại, khi một vài điều kiện dinh dưỡng bị hạn chế, cây thích ứng dễ dàng để ra hoa, tạo quả và hạt, gọi là sinh sản hữu tính.
Điều kiện ra hoa của từng giống, loài Cymbidium không giống nhau. Sau khi hoa nở, việc thụ phấn mới có thể xảy ra: hoặc thụ phấn tự nhiên nhờ loài ong nào đó có kích thước phù hợp với hoa, hoặc nhân tạo nhờ bàn tay con người.
NHÂN GIỐNG HỮU TÍNH
Có những cách thụ phấn chính như sau:
a) Tự thụ phấn: Là cách thụ phấn cho một hoa bằng hạt phấn của chính nó, hay của một hoa khác trên cùng một cành, một cây, hoặc trong cùng một dòng đã được nhân giống vô tính.
Người ta mở rộng khái niệm tự thụ phấn giữa các cá thể của cùng một loài tự nhiên sang cả việc tự thụ phấn của các giống đã được lai tạo.Trong trường hợp đầu, con cái phép tự thụ phấn ấy thường ít khác biệt nhau. Còn trường hợp sau không ai có thể dự đoán nổi mức độ sai khác của chúng. Để phân biệt trường hợp này, người ta gọi là sự tự thụ phấn ở cây lai.
b) Giao phấn: Như đã nói, giao phấn trong tự nhiên là hiện tượng thông thường, gần như bắt buộc đối với hầu hết các loài lan. Đó là nguyên nhân vì sao họ lan có số lượng chủng loại rất phong phú. Đó cũng là phương thức tồn tại, phát triển và tiến hoá ưu thế hơn cả của họ thực vật này trong hướng thụ phấn nhờ côn trùng.
Giao phấn là việc thụ phấn cho một hoa bằng hạt phấn của một dòng vô tính khác có những khác biệt rõ nét so với dòng được thụ phấn. Xa hơn nữa, là bằng hạt phấn của một loài khác trong cùng một chi; và đặc biệt là của một chi khác trong họ lan.
Giao phấn khác loài của Cymbidium rất phổ biến, còn giao phấn khác chi Cymbidium đã được giới thiệu như: Cymbidium x Phajus, Cymbidium x Spathoglotis…
Giao phấn thể hiện rõ sức lai, vì vậy con lai luôn luôn dễ thích nghi với điều kiện sống, phát triển mạnh hơn cây bố mẹ, mức độ dị biệt giữa các con lai rất lớn và số lượng cá thể khá cao.
Việc tự thụ phấn hay giao phấn đều tạo ra những giống mới, qua chọn lọc, có những đặc tính hơn hẳn cây bố mẹ. Tuy vậy khi lai tạo giống Cymbidium, người ta chỉ mới nắm được một số quy tắc sau:
– Lai giữa nhóm phụ sinh với nhóm địa sinh rất khó thành công.
– Có thể xuất hiện dạng đa bội do lai, tức là con lai khác hẳn bố mẹ về số lượng lẫn chất lượng di truyền.
– Phần lớn con lai di truyền kiểu cấu tạo hoa theo dòng mẹ và màu sắc theo dòng bố.
– Lai trở lại con lai với cây mẹ sẽ củng cố đặc tính dòng ngày càng rõ nét hơn.
Tất nhiên, không có mấy phép lai trùng hợp nhau về kết quả bởi vì không nơi nào có đủ điều kiện để gieo cấy và nuôi trồng tất cả hàng trăm ngàn hạt của chỉ một quả lai, chưa nói đến việc chọn bố mẹ có đặc điểm kinh tế nào để làm vật liệu lai ban đầu. Cho nên, việc tạo giống mới là việc đáng làm trong các vườn lan Đà Lạt.
Công việc tạo giống hữu tính có thể tóm lược ở các bước sau:
a) Chọn cây bố mẹ khỏe mạnh, phát hoa to, hoa nhiều, nhất là không bị bệnh virus, đưa vào nơi mát thường xuyên, ánh sáng trực tiếp dưới 50% và không quá ẩm.
b) Cắt bỏ nụ hoa thứ 1 và các nụ hoa từ vị trí thứ 4 trở đi (chỉ giữ lại hoa thứ 2 và 3 kể từ gốc lên). Bôi thuốc chống nấm vào vết cắt.
c) Hạt phấn có thể lấy từ hoa tươi hay đã lấy trước đó vài tháng và bảo quản trong tủ lạnh.
d) Khi hoa của cây mẹ bắt đầu nở từ 1 đến 2 ngày đặt hạt phấn vào nuốm nhụy. e) Nên gỡ bỏ hạt phấn của hoa đã được thụ phấn.
Trường hợp bất thụ cũng có thể xảy ra khi lai khác chi, khác loài, hoặc cây bố mẹ khác nhau về số lượng nhiễm sắc thể. Một phép lai bất thụ sẽ có những biểu hiện sau:
– Sau khi lai, cánh môi không đổi màu, hoa không tàn.
– Hoa tàn, bầu noãn phình ra nhưng sau đó tàn và rụng.
– Bầu noãn lớn và chín bình thường nhưng không có hạt.
– Có hạt nhưng đều là hạt lép
Khi quả to tròn, bắt đầu đổi màu xanh sang vàng nhạt thì thu hoạch, trước khi quả tự mở.
Quả thu hoạch được mở lấy hạt và gieo trong điều kiện vô trùng, trên môi trường dinh dưỡng để cho hạt nảy mầm và phát triển thành cây. Nuôi trồng và chăm sóc như cây cấy mô.
Việc chọn giống Cymbidium theo ý đồ của người lai tạo có thể dừng lại ngay sau khi cây ra hoa. Nhưng phải qua 2 đến 3 vụ hoa nữa mới đánh giá hết tiềm năng của giống mới. Từ đó hoàn chỉnh kỹ thuật nuôi trồng và tiến hành nhân giống vô tính…
NHÂN GIỐNG VÔ TÍNH
Nhờ đặc điểm dễ dàng nhân giống vô tính nên lan Cymbidium đã từng là đối tượng kinh điển trong việc nuôi cấy đỉnh sinh trưởng để nhân nhanh một giống mới. Nhờ ưu điểm này nên việc nhân một giống lan sẽ không phụ thuộc vào phương pháp nào đã tạo ra nó. Đối với Cymbidium, nhân giống vô tính đóng một vai trò quan trọng để có một lượng sản phẩm lớn, đồng đều về giá trị kinh tế.
Có 3 cách để nhân giống vô tính hiện nay đang được áp dụng rộng rãi:
a) Nhân giống bằng các giả hành già và tách bụi (đơn vị)
b) Nhân cấy đỉnh sinh trưởng:
Các chồi non có một khối tế bào sinh trưởng ở chóp và ở các chồi nhánh. Chúng phân chia rất mạnh và dần dần biệt hóa thành rễ, thân, lá. Người ta lợi dụng cách sinh sản này nuôi cấy đỉnh sinh trưởng trong môi trường vô trùng thích hợp để nhân nhanh hàng loạt một giống nào đó.
Có thể tạo ra cây con từ đỉnh sinh trưởng ngay tức khắc, hoặc kéo dài giai đoạn cắt nhân các thể chồi (Protocorm) một cách liên tục để có được một số lượng lớn và đồng đều. Khi muốn tạo thành cây, người ta ngưng cắt các Protocorm, cây hoàn chỉnh sẽ được hình c) Nhân cấy hạt lai:
Khi đã dự đoán kết quả của một phép lai, người ta mạnh dạn nhân giống hỗn hợp giữa vô tính và hữu tính để rút ngắn thời gian và tạo một số cây giống lớn. d) Tạo giống vô tính:
Việc tạo giống vô tính theo các phương pháp lai tế bào đã được tiến hành ở một số phòng thí nghiệm, còn gọi là phương pháp dung hợp tế bào trần.
Một hướng khác là gây đột biến trong ống nghiệm bằng các tác nhân vật lý và hóa học. Đây cũng là một hướng tạo giống hiện đại và tốn kém.
Đơn giản hơn, người ta có thể tạo ra những giống mới nhờ việc nhân cấy đỉnh sinh trưởng và tạo ra những điều kiện để gây ra những thay đổi đặc điểm di truyền của các tế bào cơ thể bình thường (đột biến sama) như các dạng đột biến sinh lý, đa bội.
Trong việc nhân giống vô tính, nhược điểm lớn nhất là cây mẹ có thể bị nhiễm các dạng bệnh virus. Nếu không được tuyển chọn và kiểm tra kỹ lưỡng sẽ cho ra đời hàng loạt cây con có chứa mầm bệnh.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Kỹ Thuật Nhân Giống Đào trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!