Cập nhật nội dung chi tiết về Kĩ Thuật Trồng Rừng Tràm mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Kĩ thuật trồng rừng tràm
I. Các xuất xứ của cây tràm:
Cây tràm có nhiều loài và trong một loài lại có nhiều xuất xứ khác nhau. Ở những loài khác nhau và những xuất xứ khác nhau thì khả năng sinh trưởng, khả năng chống chịu các tác nhân gây hại như sâu bệnh và chuột cũng rất khác nhau. Vì thế, việc chọn loài cũng là một nhân tố quan trọng trong công việc trồng rừng.
Theo một số kết quả nghiên cứu và thực nghiệm đã được công bố. Chọn các loài tràm có các xuất xứ như sau để trồng rừng:
* Đối với loài tràm bản địa có tên khoa học là Melaleuca cajuputi (còn gọi tràm ta) nên chọn một trong những xuất xứ sau:
+ Xuất xứ Vĩnh Hưng, Mộc Hóa của tỉnh Long An
+ Xuất xứ Tịnh Biên của tỉnh An Giang
Nhìn chung, các xuất xứ vưà nêu trên của loài Tràm ta đều sinh trưởng kém hơn các giống tràm nhập nội. Tuy nhiên, vì có nguồn gốc bản địa nên cây tràm ta có khả năng chống chịu các tác nhân gây hại đến cây tốt hơn.
* Đối với tràm nhập nội (còn gọi là tràm Úc), hiện 2 loại: Melaleuca leucadendra và Melaleuca viridiflora và cả 2 loài này cũng có nhiều xuất xứ.
+ Tràm Melaleuca leucadendra có khả năng sinh trưởng rất nhanh, đặc biệt là với các xuất xứ Bensbach và PNG. Tuy nhiên, các giống tràm nhập nội này thường bị các tác nhân gây hại tấn công như sâu ăn chồi, sâu đục thân và chuột phá hại.
+ Tràm Melaleuca viridiflora, có khả năng sinh trưởng tốt, chỉ sau loài Melaleuca leucadendra. Do ít bị sâu cắn chồi và ít bị chuột cắn phá hơn Melaleuca leucadendra, nên cũng có thể xem loài này có triển vọng phát triển như là một cây trồng rừng tốt.
Về thời gian khai thác tràm để làm cừ thì đối với tràm Úc khoảng 5 – 6 năm, tràm ta thì từ 7 –10 năm (phụ thuộc vào mức độ đầu tư).
II. Kỹ thuật trồng rừng tràm:
2.1/ Kỹ thuật xử lý thực bì và làm đất:
Thực bì có thể chia làm 2 loại:
+ Loại 1: thành phần thảm thực vật chủ yếu là cỏ năng, cỏ ống, cỏ mồm, cỏ bàng. Những loài cỏ này thường mọc trên đất thấp, có thời gian ngập nước dài.
+ Loại 2: Thành phần chủ yếu là đưng, cây mua, tràm gió, dây chọi và một số dây leo cây bụi khác. Chúng thuờng mọc dày hoặc mọc từng đám và trên đất cao có thời gian ngập nước ngắn.
Cách phân biệt loại thực bì như trên giúp ta quyết định khâu làm đất: như đối với thực bì loại 1 thì có thể xử lý hoặc không xứ lý, nhưng đối với thực bì loại 2 thì nên xử ly trước khi làm đất. Về xử lý thực bì có 3 cách làm như sau:
Thủ công: phát dọn toàn diện cỏ dại và cây bụi, gom lại thành đống và đốt. Tiến hành đốt vào lúc sáng sớm hoặc cuối buổi chiều. Trước khi đốt cần phải làm ranh cản lửa và đốt từ cuối hướng gió. Công việc phát dọn này nên tiến hành vào đầu mùa khô, khoảng tháng 2 – 3.
Xử lý băng cơ giới: Có thể sử dụng máy kéo có bánh lồng trục đất vào mùa nước rút khi mực nước ngập ngoài hiện trường còn khoảng 0,4 – 0,6m để nhấn chìm thực bì trong đất. Sau khi loại bỏ thực bì, các loại cỏ rác trôi nổi trên mặt nước cần phải được thu dọn và gom lại để dọc bờ bao của lô trồng rừng.
Kết hợp thủ công và cơ giới: Sau khi phát đốt thực bì, thì sử dụng máy cày để cày lật đất từ 1 – 2 lần vào tháng 4 – 5.
Làm đất: Có 2 cách làm đất, lên líp nhẹ hoặc không lên líp:
Lên líp nhẹ: tạo líp rộng 4 m, cao từ 0, 2m – 0,3m, mương rộng tối đa 1,3m, có thể lên líp bằng thủ công hoặc bằng cơ giới tùy theo điều kiện sẵn có.
Không lên líp: tận dụng mặt đất tự nhiên, nhưng phải tạo hệ thống rãnh thoát nước có độ sâu 0,5m và chiều rộng 1,5m, các rãnh mương phải cách nhau từ 10 – 15 m. Mục đích của các mương này là để rửa phèn trong đất giúp cây sinh trưởng tốt.
2.2/ Kỹ Thuật Trồng và chăm sóc:
2.2.1/ Mùa trồng rừng:
Đối với cây con có túi bầu: Mùa trồng rừng phù hợp là tháng 5 – 6, hoặc tháng 11 – 12.
Đối với những cây rễ trần. Mùa trồng rừng thích hợp là vào đầu mùa lũ (trong tháng 6 – 7) hoặc là vào cuối mùa lũ (tháng 11 – 12). Trường hợp trồng sau mùa lũ, cần phải nhổ cây con khỏi vườn ươm và giâm cây trong nước sạch 7 – 10 ngày trước khi trồng để cây ra rễ con.
Ở những vùng không bị ảnh hưởng của mùa lũ thì thời vụ trồng rừng phù hợp nhất cho cả 2 cách trồng trên là vào đầu mùa mưa.
2.2.2/ Mật độ trồng:
Đối với tràm ta: Mật độ 30.000 cây – 40.000 cây/ha, tương ứng với cự ly 0,7 m x 0,5 m,hoặc 0,5 m x 0,5 m
Đối với tràm Úc: Mật độ tốt nhất là 15.000 cây hoặc 20.000 cây/ha, tương ứng với cự ly 1m x 0,7m, hoặc 1m x 0,5 m.
2.2.3 Kỹ thuật trồng:
Trước khi trồng cần phải tạo lỗ có đường kính rộng 7 – 10cm, sâu 15- 20cm (dùng nọc hay bay để tạo lỗ) đối với vùng đất mềm. Còn những vùng đất khác thì nên đào hố kích thước 20 x 20 x20 cm, trồng xong phải giậm nhẹ xung quanh hố để cây đứng và rễ cây tiếp xúc với đất.
2.2.4 Chăm sóc:
Sau khi trồng 15 – 20 ngày, kiểm tra thấy tỷ lệ cây sống < 80%, thì phải tiến hành trồng dặm.
Nếu trồng tràm để lấy gỗ thì không cần phải làm cỏ vun đất trong 2 – 3 năm đầu (do trồng dầy)
Khi rừng đã định hình (trên 3 năm), có thể phát dây leo, cây bụi, tỉa cành thấp tạo cho thân chính sinh trưởng.
* Phòng chống sâu bệnh
+ Có khoảng 12 loài côn trùng gây hại chủ yếu cho cây, nhất là Xén tóc đục thân, nhóm sâu hại ngọn tràm non, sâu cuốn lá tràm. Ngoài việc trồng hỗn giao, chú ý chăm sóc để cây có sức đề kháng cao.
+ Phòng chống chuột: ngoài rừng nên phát sạch cỏ, cây bụi, những nơi trú ngụ của chuột xung quanh rừng. Nên kết hợp các biện pháp: cơ học, hoá học, sinh học để phòng chống chuột.
Nguồn: TT KN quốc gia và Trung tâm khuyến nông TPHCM, KS. Đức Dũng
Quy trình kĩ thuật trồng rừng tràm (Melaleuca cajuputi)
Chương I: Điều khoản chung
Điều 1: Quy trình này được áp dụng cho trồng rừng Tràm thuần loài có nguồn gốc bản địa, với các xuất xứ Tràm ở Tịnh Biên (Tỉnh Kiên Gang), và các xuất xứ Tràm ở Vĩnh Hưng (tỉnh Long An). Quy trình này quy định hệ thống biện pháp kĩ thuật trồng rừng Tràm từ khâu thu hái chế biến bảo quản giống, chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ rừng trồng nhằm :
– Đảm bảo cho rừng trồng khép tán trong vòng 3-5 năm.
– Rừng trồng đạt lượng tăng trưởng bình quân 12- 15m3/ha/năm. Rừng vừa cung cấp gỗ, cừ, củi vừa phát huy tác dụng trong việc cải tạo đất phèn giữ nước ngọt, ngăn sóng, chắn gió, bảo vệ sản xuất nông nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho kinh doanh thủy sản, phát triển nghề nuôi ong.
Quy trình kỹ thuật trồng rừng Tràm này chỉ áp dụng ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
Chương II: Điều kiện gây trồng
Điều 2: Điều kiện khí hậu Trồng rừng Tràm ở vùng khí hậu nhiệt đới ẩm điển hình, không có mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình năm 20oC, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất trong năm 20oC. -Lượng mưa hàng năm 1500mm, có mùa khô rõ ràng từ tháng 1 đến tháng 4.
Điều 3: Điều kiện đất đai trồng rừng:
Rừng Tràm được trồng trên đất phù sa phèn (Thionic Fluvisols), trong đó có 3 loại đất phụ sau đây:
• Đất phù sa phèn tiềm tàng (Proto — Thonic — Gleysols) • Đất than bùn phèn tiềm tàng (Proto — Thonic — Gleysols) • Đất phù sa phèn hoạt động (Orthi — Thonic — Gleysols)
Phần I : trồng rừng
Chương III: Kỹ thuật thu hái, chế biến và bảo quản hạt giống
Điều 4: Chọn xuất xứ Tràm và thu hái hạt giống
– Lấy giống ở hai vùng Tịnh Biên (An Giang) và Vĩnh Hưng (Long An), là các xuất xứ Tràm tốt phù hợp cho việc phát triển cho vùng đồng bằng sông Cửu Long. – Chọn các lâm phần rừng Tràm lớn hơn hoạc bằng 8 tuổi, sinh trưởng tốt, không bị sâu bệnh . – Thời gian thu hái hạt: Vào tháng 11 và 12 trong năm. – Khi vỏ quả có mầu mốc trắng, mày và hạt phân biệt phải thu hái ngay (Nếu thu hái muộn nắp quả Tràm tự tách ra, và hạt sẽ rơi rụng hết). – Thu hái quả bằng các công cụ đơn giản như là cù nèo, cắt lấy cành Tràm có mang quả chín.
Điều 5: Cách chế biến hạt
Các quả Tràm được thu hái về cần loại bỏ cành, nhánh lá và sau đó vun quả thành đống rộng khoảng 1m2, cao 0,3-0,4cm. ủ quả trong 2 đến 3 ngày để quả chín đều. Mỗi ngày đảo quả lại một lần sau đó phơi dưới nắng nhẹ vào buổi sáng và buổi chiều để quả Tràm tự tách hạt. Thu lấy hạt sàng sẩy hạt sạch sẽ, loại bỏ các tạp chất rồi tiếp tục phơi hạt Tràm như trên thêm 2 đến 3 ngày nữa là được. Tránh phơi hạt nơi có gió thổi mạnh, gió sẽ cuốn bay mất hạt vì hạt Tràm rất nhỏ bé và nhẹ. 1kg hạt Tràm có khoảng 21-23 triệu hạt.
Điều 6: Phương pháp bảo quản hạt giống
Bảo quản hạt Tràm theo phương pháp bảo quản khô bằng cách cất vào trong các bình khô, đậy nắp kín. Thời gian bảo quản trong vòng từ 1 đến 2 năm. Nhưng tốt nhất nên gieo hạt Tràm đã bảo quản vào mùa mưa năm sau.
Chương IV: Kỹ thuật tạo cây con
Điều 7: Chuẩn bị đất để gieo hạt Tràm
– Đất để gieo hạt Tràm phải có điều kiện điều tiết được nước ra vào hợp lý và dễ dàng. – Đất không bị nhiễm mặn, (độ mặn <0,8%). – Nước được sử dụng để giữ ẩm cho khu đất gieo hạt không được đục do lẫn bùn, hoặc nước có màu đỏ đục (do bị lẫn nhiều các hợp chất hữu cơ hoà tan). – Khu đất được chọn để gieo hạt Tràm cần phải làm sạch cỏ, cày bừa kỹ. – Phải đảm bảo có nước luôn lấp xấp đều cho cả khu đất gieo hạt. – San mặt đất cho thật bằng phẳng, dể tạo điều kiện điều tiết nước ra vào, ngập lấp xấp đều trên toàn bộ khu đất gieo hạt.
Điều 8: Kỹ thuật gieo hạt Hạt Tràm trước khi gieo được trộn đều với tro bếp (hoặc cát mịn khô), theo tỷ lệ 1 phần hạt 2-3 phần tro bếp theo trọng lượng hạt. Gieo vãi dều trên toàn bộ khu đất đã chuẩn bị để gieo hạt. Sử dụng khoảng 2 lít hạt Tràm để gieo trên 1000m2 diện tích gieo ươm.. – Sau khi gieo hạt, cắt cỏ, rải thành một lớp mỏng, phủ kín trên mặt đất để tăng khả năng giữ ẩm cho đất và tạo ra môi trường không khí ẩm ướt sát mặt đất. – Sau khi gieo từ 7-10 ngày, hạt Tràm sẽ nảy mầm và ta có thể bỏ lớp cỏ phủ trên mặt đất. – Bảo đảm mật độ cây mạ khoảng 400-500 cây/m2 là tốt nhất.
Điều 9: Kỹ thuật chăm sóc cây con ở vườn ươm – Nuôi cây con ở vườn ươm khoảng 1 năm. – Cần luôn điều chỉnh mật độ cây con ở vườn ươm thích hợp trong quá trình sinh trưởng để cây con phát triển cân đối và khoẻ mạnh. Mật độ ban đầu 400-500 cây/m2. Đến thời gian xuất vườn, mật độ còn khoảng 100-150 cây/m2 là thích hợp. – Cần làm sạch cỏ dại cho cây con ở vườn ươm. – Nếu cây con sinh trưởng không được tốt chúng ta có thể bón thêm phân đạm và lân cho cây sinh trưởng khoẻ và tốt hơn.
Điều 10: Tiêu chuẩn cây con xuất vườn – Cây con có tuổi từ 10-12 tháng. – Chiều cao: 50-70cm. – Đường kính cổ rễ: 5-8mm. – Cây sinh trưởng khoẻ mạnh, không bị cụt ngọn, sâu bệnh và bộ rễ phát triển mạnh, rễ cái dài trên 6cm, không bị tổn thương.
Chương V: Kỹ thuật trồng rừng
Điều 11: Chọn đất trồng rừng
Tất cả các diện tích đất hoang hoá dễ bị nhiễm phèn (bao gồm các hạng đất Ia, Ib, IIa, IIb và III theo phụ lục) đều trồng được Tràm. Hạng đất Ib, IIa, IIb là các hạng đất trồng Tràm rất thích hợp và cho năng suất cao mục tiêu chủ yếu là trồng rừng kinh tế, phòng hộ là phụ. Các hạng đất Ia, III ít thích hợp hơn, năng suất thấp chỉ trồng với mục tiêu phòng hộ, cải tạo đất.
Điều 12: Phương pháp trồng rừng Căn cứ điều kiện lập địa từng nơi mà chọn 1 trong 2 phương pháp trồng sau đây: – Trồng rừng gieo hạt thẳng (sạ hạt). – Trồng rừng Tràm bằng cây con rễ trần.
Mục 1: Trồng rừng Tràm bằng phương pháp gieo hạt thẳng (sạ hạt)
Điều 13: Điều kiện áp dụng
– Đất gồm các hạng IIa, IIb, thực bì gồm các cỏ mờn, cỏ bông, đuôi chồn, cỏ lác, năng ngọt chiếm ưu thế. – Nước lưu thông, không bị đục, không bị thối.
Điều 14: Cách làm đất để sạ hạt
– Phát và đốt sạch thực bì. – Cày hai lần hoặc cày một lần trục hai lần. – Việc làm đất phải xong trong mùa khô và hoàn tất trước khi sạ hạt ít nhất 10 ngày.
Điều 15: Xác định thời điểm sạ hạt
– Vùng ngập nước do mưa: Chỉ sạ hạt khi mức nước đã ngập cao hơn mặt nước 20cm. – Vùng ngập do nước lũ: Sạ hạt khi nước nguồn đổ về ngập 15-50cm cao hơn mặt đất. Nếu mực nước cao hơn 50cm thì ngừng sạ hạt. Tiến hành sạ hạt lúc lặng gió, cường độ dòng chảy không đáng kể. Người thực hiện phải được hướng dẫn và luyện tập thành thạo.
Điều 16: Xử lý và sạ hạt Tràm
• Xử lý: – Cho hạt vào 2/3 bao, buộc chặt miệng bao và cho xuống nước ngâm 12 giờ liền sau đó vớt ra để cho ráo nước. – Trộn hạt với tro, trấu, cát một phần hạt với 5 phần chất độn. – Nếu dùng trấu thì phải ngâm trấu một tuần rồi vớt lên để cho ráo nước. • Lượng hạt sạ trên 1ha như sau: – Sạ để kết hợp tạo cây con nhổ đem trồng: 12-16kg hạt/ha. – Sạ chỉ để tạo rừng: 6-8kg hạt/ha.
Mục 2: Trồng rừng Tràm bằng cây con
Điều 17: Điều kiện để trồng rừng Tràm bằng cây con
– Các hạng đất Ia, Ib, III. – Những nơi nước thối, nước đục. – Những nơi có nhiều rong.
Điều 18: Xử lý thực bì
– Với cỏ năng, cỏ ống, cỏ mờn có chiều cao dưới 1m không phải phát dọn. – Đối với cây sậyphải phát sát gốc hoặc dùng máy cày cày lúc nước chưa ngập, sậy chưa ra hoa. – Với thực bì là cây bụi, dây leo thì phải phát đốt.
Điều 19: Bứng cây, tạo tầng lông hút.
– Cây con phải đủ tiêu chuẩn như quy định tại điều 10. – Bứng các cây Tràm con bằng xẻng để tránh làm tổn thương bộ rễ. Dầm gốc các cây Tràm con mới bứng dọc theo các bờ kênh mương dưới bóng mát, để bộ rễ của chúng được ngâm trong nước chảy. Nước chảy sẽ làm sạch đất. Tiếp tục ngâm cho tới khi cây Tràm con tạo ra được tầng lông hút mới màu trắng (thường gọi là rễ trắng) mới đem trồng. – Không được chất thành đống hoặc bỏ nằm trong nước.
Điều 20: Khi vận chuyển đi trồng phải đảm bảo
– Không xếp quá chặt đảm bảo thoáng khí. – Trát bùn hoặc thân cỏ mục bao quanh từng bó rễ. Không để rễ bị khô. – Tránh dẫm đạp làm tỏn thương rế.
Điều 21: Mật độ thời vụ trồng
• Mật độ – Trồng mật độ 10.000 cây/ha ở nhóm đất thích hợp (Cự ly 1m x 1m) – Trên nhóm đất có nhiều hạn chế trồng mật độ 20.000 cây/ha (Cự ly 1m x 0,5m) • Thời vụ – Trồng Tàm tốt nhất vào tháng 7 đến thánh 9 dương lịch. Có thể kéo dài đến tháng 12. – Tuỳ điều kiện từng địa phương mà xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc căn cứ vào các tiêu chuẩn sau: + Mức nước ngập khi trồng không vượt quá đọt cây trồng. + Hoàn thành trước khi nước rút cạn ít nhất 15 ngày. Những nơi có nước thối tràn qua phải trồng xong 20 ngày trước khi nước thối đổ về hoặc sau nước thối rút hết.
Điều 22: Trồng Tràm bằng công cụ đơn giản có tên là “nọc”, đó là một chiếc gậy bằng gỗ có đường kính 4-5cm, một đầu nhọn. Dùng nọc soi một lỗ xuống đất, với độ sâu 25-30cm, cách lớp mặt đất trong điều kiện đất bị ngập nước. Sau đó, đặt cây Tàm con xuống, để bộ rễ đứng vào lỗ, hơi kéo cây lên một chút để cho rễ cây Tràm không bị cong hoặc bị gẫy trong khi trồng. Nén chặt đất xung quanh gốc Tràm bằng chân.
Điều 23: Phương thức trồng
– Trồng thuần loại bằng cây con rễ trần. – Trồng Tràm nông lâm kết hợp. ở những nơi có điều kiện, thực hiện trồng rừng Tràm xen lúa (giống lúa địa phương tài nguyên, cây cao, chịu phèn), trong 2 hoặc 3 năm đầu, khi rừng Tràm chưa khép tán, để giảm bớt khâu chăm sóc và bảo vệ tốt rừng Tràm. – Trồng Tràm theo phương thức nông-lâm-ngư kết hợp (Tràm, Lúa nước, Cá, Ong mật).
Điều 24: Nghiệm thu rừng trồng
– Rừng Tràm trồng sau 3 tháng sẽ tiến hành nghiệm thu. – Tỷ lệ cây sống phải đạt trên 85% tổng số cây so với mật độ thiết kế quy định. – Cây sinh trưởng và phát triển tốt.
Chương VI: Chăm sóc và nghiệm thu rừng Tràm.
Điều 25: Đối với rừng trồng bằng phương pháp sạ hạt thẳng tiến hành chăm sóc hai năm liền
• Năm thứ nhất: – Ngăn chặn hoạt động của ngưới và gia súc làm đục nước. Không được lội ngang qua khu vực sạ hạt. – Vùng có nước lũ khi nước rút dùng phạng phát ngọn cỏ mới mọc cách mặt đất 20 đến 30cm cao hơn Tràm con mới mọc. – Cố gắng xây dựng một số mương cần thiết và đào một số ãnh nông (rộng 40, sâu 40cm) trong rừng Tràm nhằm lợi dụng nước đầu mùa để thau chua, rửa mặn cho đất trồng Tràm. – ở các vùng trồng rừng Tràm ven biển, Nếu nước ra vào rừng Tràm sau khi trồng bị nhiễm mặn trong mùa khô, cần phải đóng toàn bộ các cửa cống thông với các hệ thống sông ngòi để ngăn chặn nước mặn xâm nhập vào các khu rừng Tràm dưới 4 tuổi. • Năm thứ hai: Dặm cây con ở những nơi Tràm mọc quá thưa và tỉa bớt ở những nơi quá dày đảm bảo trên 1m2 có khoảng 4-5 cây.
Điều 26: Chăm sóc đối với rừng trồng bằng cây con
• Năm thứ nhất: Sau khi trồng cấm người đi lại hoặc bơi xuồng qua khu vực trồng. • Năm thứ 2: Những lô trồng tỷ lệ cây chết dưới 20% tiến hành dặm ở những chỗ không có cây từ 3m2 trở lên. Những nơi tỷ lệ cây chết 20-50% trồng dặm toàn diện đảm bảo số cây phân bố tương đối đều trên diện tích. Nếu tỷ lệ chết trên 50% phải trồng lại.
Điều 27: Chống cháy bảo vệ rừng Tràm trong mùa khô
– Mùa cháy rừng Tràm bắt đầu từ giữa mùa khô (tháng 2) đến hết mùa khô. Thời gian nguy hiểm dễ cháy rừng nhất là vào cuối mùa khô, từ tháng 3-4. Trong thời gian này cần quản lý chặt chẽ những người dùng lửa vào rừng Tràm để lấy mật ong, hoặc đốt cỏ để săn bắt rắn, trăn, rùa…. – Thiết kế một số kênh mương, bờ bao, các cửa cống lấy nước và tháo nước. Để giữu độ ẩm cho đất và thảm mục dưới rừng Tràm trong mùa khô, nhằm hạn chế sự bắt lửa, giữ nước ém phèn và có để nước để dễ dàng dập tắt các đám cháy mới phát sinh trong rừng Tràm. Nhưng không nên để đất dưới rừng Tràm quanh năm ngập nước.
Viện Nghiên cứu và Phát triển Lâm nghiệp Nhiệt đới, 14/10/2010
Hướng Dẫn Kỹ Thuật Trồng Rừng Keo Lá Tràm
Keo lá Tràm (Acacia auriculiformis) hay các loại cây Keo là loại Cây gỗ cao tới 25 – 30m, cành nhỏ, tự tỉa cành tốt, dễ trồng bằng hạt, sống lâu, cố định đạm. Có thể sinh trưởng trên nhiều loại đất, kể cả đất nghèo kiệt, thoát nước kém. Cây mọc nhanh, tốc độ sinh trưởng cao trong vài năm đầu.
Mục đích kinh doanh: Phù trợ cây bản địa, làm gỗ gia dụng và củi Chu kì kinh doanh: 8 – 10 năm
ĐẶC ĐIỂM, GIÁ TRỊ KINH TẾ Cây gỗ cao tới 25 – 30m, cành nhỏ, tự tỉa cành tốt, dễ trồng bằng hạt, sống lâu, cố định đạm. Có thể sinh trưởng trên nhiều loại đất, kể cả đất nghèo kiệt, thoát nước kém. Cây mọc nhanh, tốc độ sinh trưởng cao trong vài năm đầu. Song trên một nơi nếu trồng nhiều chu kì liên tục có thể dẫn tới nghèo Kali và Mg trong đất. Gỗ làm trụ mỏ, bột giấy (giấy gói), ván dăm, thân cành làm củi tốt do nhiệt lượng của than cao. Trong lâm sinh dùng làm cây trồng phù trợ cải tạo đất, che bóng.
A. Kỹ thuật tạo cây con 1. Vườn ươm.– Ưu tiên phát triển các vườn ươm nhỏ phân tán gần khu vực trồng rừng (không xa quá 4km).– Gần nguồn nước sạch đủ tưới quanh năm. Tránh dùng nước ao tù, nước đọng .- Mặt bằng vườn ươm tương đối bằng phẳng (không dốc quá 5o), cao ráo thoát nước tránh úng ngập. Có diện tích đủ lớn để dãn bầu hoặc phân loại cây con.– Tránh đặt vườn ươm nơi thung lũng hẹp thiếu ánh sáng hoặc đỉnh đồi có gió lùa.- Đất vườn ươm có thành phần cơ giới thịt nhẹ hay pha cát, không dùng đất đã qua canh tác cây nông nghiệp nhiều năm bị bạc mầu hoặc đã bị nhiễm sâu bệnh.
2. Giống.
2.1. Thu mua hạt giống.Dự án chỉ cho phép dùng hạt giống từ các nguồn giống được nhà nước công nhận. Giống được thu hái từ các vườn giống hoặc lâm phần chuyển hoá. Hạt giống các loại keo thường được cung ứng từ các tỉnh phía Nam, cho nên khi mua về từ các cơ sở sản xuất giống phải có lí lịch ghi rõ nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.Xuất xứ giống Keo lá tràm cho Dự án được khuyến cáo: Đồng Nai Một số thông số cơ bản:· Tỷ lệ chế biến: 3 – 4kg quả/1kg hạt.· Số lượng hạt/1kg: 45.000 – 50.000 hạt.· Hàm lượng nước sau chế biến: 7 – 8%.· Tỷ lệ nảy mầm: Trên 90%.
2.2. Bảo quản hạt giống.Hạt mua về nên tiến hành gieo ươm ngay để đạt chất lượng gieo ươm cao. Trường hợp cần bảo quản, có thể áp dụng phương pháp bảp quản khô:- Sau khi hạt đã phơi khô, độ ẩm của hạt đưa vào bảo quản từ 7 – 8%.– Hạt đựng trong chum vại hoặc lọ thuỷ tinh có nút kín, sau đó được cất trữ nơi thoáng mát.- Kiểu bảo quản này tỷ lệ nảy mầm có thể suy giảm từ 20 – 30%.
3. Tạo bầu.
3.1.Vỏ bầu.– Loại vỏ bầu PE mầu trắng đục hoặc đen, bảo đảm độ bền, dai để khi đóng bầu hoặc qúa trình tạo cây trong vườn cũng như khi vận chuyển không bị hư hỏng.- Kích thước bầu: 7x11cm. Bầu không đáy và đục lỗ xung quanh. Không dùng bầu có đáy hoặc cắt góc đáy.
3.2.Thành phần hỗn hợp ruột bầu.
– Phân chuồng ủ hoai: 10%.– Supe lân Lâm thao: 2%.- Đất tầng A dưới tán rừng : 88%.Yêu cầu phân chuồng:· Phân phải qua ủ hoai· Phân khô. Yêu cầu phân Lân:· NPK: Hàm lượng P2O5 dễ tiêu đạt tỷ lệ 14% Yêu cầu đất rừng tầng A:· Có hàm lượng mùn 3%· Độ pH(KCL): 5.0 – 6.0 .· Thành phần cơ giới: thịt nhẹ, pha cát (sét vật lí 20-30%)Tuyệt đối không được gieo “Chay”, không có phân chuồng hoặc dùng đất tầng B sau đó bón thúc phân vô cơ (đạm lá).
3.3. Kỹ thuật pha trộn đất ruột bầu.
– Đất tập kết tại vườn ươm, được đập nhỏ và sàng có đường kính 4cm loại bỏ rễ cây, sỏi đá, đất sét, rồi vun thành đống cao 15 – 20cm. Sau đó phun ẩm và dùng vải mưa, giấy bóng ủ 4 – 5 ngày ngoài nắng.– Phân chuồng qua ủ hoai và phân Lân nếu vón cục cũng phải đập nhỏ và sàng.- Các thành phần kể trên được định lượng(đong bằng thúng, sảo…) theo tỷ lệ đã quy định và trộn đều trước khi đóng bầu.– Để có độ kết dính khi đóng bầu, đất được tưới nước ẩm, nhưng tránh quá ướt kết vón. 3.4. Xếp bầu trên luống và kỹ thuật đảo bầu.
– Luống để xếp bầu được trang cho phẳng, đất nhỏ mịn, sạch cỏ. Luống có quy cách: Chiều rộng 1m, chiều dài 10 – 20m và cao 15 – 20cm. Rãnh luống: 40 – 50cm.- Xếp bầu theo hàng, cứ 2 hàng để cách 1 hàng. Mật độ bầu trên luống khoảng 280bầu/m 2.– Từ tháng thứ 2 phải tiến hành thăm bầu. Khi rễ cọc phát triển ra ngoài đáy bầu phải tiến hành cắt phần rễ thò ra ngoài bầu và đảo bầu kết hợp phân loại cây để tiện chăm sóc (ít nhất phải đảo bầu 2 lần).- Chỉ tiến hành đảo bầu vào những ngày dâm mát hoặc có mưa nhỏ. 4. Xử lý hạt giống.– Diệt khuẩn bằng cách ngâm hạt trong dung dịch thuốc tím KMnO4 nồng độ 0,1% (1gam thuốc tím pha cho 1 lít nước) thời gian ngâm: 30 phút.- Sau đó vớt ra tiếp tục ngâm trong nước sôi 100oC để nguội dần trong 8 giờ.– Vớt hạt ra ủ trong túi vải bông, mỗi túi ủ không quá 3 kg hạt để nơi khô ráo ấm áp.- Hàng ngày tiến hành ủ chua bằng nước sạch, cho đến khi hạt nứt nanh 30% đem gieo (tránh để nanh quá dài khi gieo có thể bị gẫy mầm).– Trong suốt thời gian ủ hạt phải giữ nhiệt độ 30 – 40oC. 5. Thời vụ gieo.· Gieo hạt để trồng cây vụ Xuân:Tháng 10 – 12 .· Gieo hạt để trồng cây vụ Thu: Tháng 3 – 4. 6. Gieo hạt và cấy cây.+ Gieo hạt nứt nanh trực tiếp vào bầu:– Tạo 1 lỗ sâu 0.3 – 0.5cm giữa bầu và gieo 1 – 2 hạt đã nứt nanh, sau đó phủ lớp đất mỏng từ 3 – 5mm- Dùng rơm rạ đã qua khử trùng bằng cách ngâm trong nước vôi phủ trên mặt luống.– Thường xuyên tưới nước giữ độ ẩm cho đất.- Khi cây mầm đội mũ, cần dỡ bỏ rơm rạ và tạo dàn che tránh nắng.+ Cấy cây mầm vào bầu:- Để tiết kiệm hạt và tạo độ đồng đều, gieo hạt trên luống, sau đó cấy cây mầm vào bầu.– Hạt gieo theo hàng hoặc gieo vãi. Số hạt gieo: 1kg/15 – 20m2.- Gieo gieo xong phủ lớp đất mịn dày không quá 4mm, sau đó phủ rơm rạ trên mặt luống. Rơm rạ để phủ cần được khử trùng bằng nước vôi.– Thường xuyên giữ độ ẩm trong đất. Tưới 6 lít nước cho 1m2- Cấy cây mầm khi chưa có lá thật (còn lá kép lông chim) thường đạt tỷ lệ sống cao nhất.– Chỉ tiến hành cấy cây khi trời râm mát hoặc mưa nhẹ, tránh những ngày nắng gắt, gió mùa Đông Bắc. Trước hôm cấy cần tưới đất ướt đều: Cứ 1m2 tưới 4 – 6 lít nước.- Cây cấy sau khi nhổ cần nhúng luôn vào bát nước để tránh khô rễ mầm. Cấy đến đâu nhổ đến đấy. Loại bỏ những cây xấu.– Dùng que nhọn chọc 1 lỗ sâu 1- 2 cm ở giữa bầu, đặt cây mầm sao cho cổ rễ ngang mặt bầu và dùng que ép chặt đất rễ mầm. Trường hợp rễ cây mầm quá dài có thể cắt bớt, nhưng tránh gây dập nát.- Cấy xong cắm ràng ràng che bóng nhẹ và tưới nước cho cây. 7. Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh.
– Thường xuyên giữ đất ẩm sau khi gieo hoặc cấy cây nếu trời không mưa.- Trong tháng đầu nếu trời không mưa, tưới mỗi ngày ít nhất 1-2 lần vào buổi sáng sớm hoặc buổi chiều 2 – 4lít/1m2. Tưới liên tục trong 20 ngày đầu, sau đó dỡ vật liệu che bóng và chỉ tưới khi đất khô.– ở giai đoạn sau tuỳ theo thời tiết mà điều chỉnh lịch tưới cho phù hợp: Cách 10 – 15 ngày tưới 1 lần.- Trước khi xuất vườn 15 – 20 ngày tuyệt đối không được bón thúc và hạn chế tưới nước để hãm cây. 7.2. Cấy dặm.– Sau khi cấy cây 5 – 10 ngày, cây nào chết cần tiến hành cấy dặm ngay. Nơi cây dặm chết nhiều, nên xếp riêng những bầu cấy dặm ra một chỗ để tiện chăm sóc.- Chỉ cấy dặm vào những ngày râm mát và che nắng, tưới đủ ẩm cho cây. 7.3. Nhổ cỏ phá váng.– Luôn làm cỏ sạch trên mặt luống. Thời gian đầu cứ sau 10 – 15 ngày cần làm cỏ, kết hợp phá váng 1 lần.- Dùng que vót nhọn xới nhẹ phá lớp váng tạo trên mặt bầu, tránh không làm hư tổn đến bộ rễ cây – Có thể bón thúc để thúc đẩy sinh trưởng của cây con, trong trường hợp dinh dưỡng ruột bầu không bảo đảm hoặc vào những giai đoạn thời tiết không thuận lợi như rét đậm, sương muối Cứ 15 – 20 ngày thúc 1 lần.- Dùng loại phân hỗn hợp N:P:K = 25:58:17 với nồng độ 2 – 3% tưới 2 lít/m2. Hoặc dùng phân Supe Lân Lâm thao khi cây có biểu hiện tím lá: 2kg bón cho 1000 bầu chia làm 6 lần (Mỗi lần bón 0,170kg/1000bầu. Hoà phân với nồng độ 0,5% (1kg phân/200 lít nước). Tưới dung dịch nước phân bằng bình hương sen. Sau khi tưới phân phải tưới rửa bằng nước lã.– Không tưới thúc vào những ngày nắng gắt, vào lúc buổi trưa nắng. Tốt nhất nên bón vào những ngày râm mát hoặc mưa phùn.
7.5. Phòng trừ sâu bệnh.
(1). Bệnh thối cổ rễ.– Thường xuyên kiểm tra tình hình sâu bệnh, nếu phát hiện bệnh lở cổ rễ dùng Benlát 0,5%. Liều lượng: 1 lít/24m2. Cứ 7 – 10 ngày phun 1 lần.– Khi bệnh xuất hiện có triệu chứng: Cổ rễ cây bị thối nhũn làm cây con bị chết. Bệnh thường xuất hiện ở cây con 1 tháng tuổi. (2). Bệnh nấm mốc trắng.Ngoài thuốc Benlát, có thể dùng hỗn hợp lưu huỳnh vôi nồng độ 3 – 5 ppm phun 1 Lít/24m2 định kì 10 – 15 ngày/lần. (3). Bệnh lí thiếu dinh dưỡng khoáng.– Trong vườn xuất hiện một số cây thậm chí một đám cây có các biểu hiện thiếu dinh dưỡng khoáng chất, cây còi cọc, tím lá, bạc lá hoặc vàng còi, cây không có màu xanh lục.- Cách điều trị: Ngoài việc bón thúc, phun phòng bệnh theo chế độ kể trên cần tăng cường Supe Lân Lâm thao nồng độ 0,2% với liều lượng 2,5 lít/m2 cứ 4 – 5 ngày 1 lần kéo dài 1 – 2 tuần cho đến khi cây khỏi bệnh. Khi xuất hiện sâu hại, ngoài việc thường xuyên kiểm tra và bắt sâu vào sáng sớm, có thể dùng 0,05 lít Fenitrotion pha với 10 lít nước phun liều lượng 1 lít /10m2. 8. Tiêu chuẩn cây xuất vườn.· Tuổi cây: 3 – 5 tháng tuổi.· Đường kính cổ rễ: 0,25 – 0,30 cm.· Chiều cao bình quân: 25 – 30 cm.· Cây đã hoá gỗ hoàn toàn.· Cây không bị nhiễm bệnh.· Bộ rễ phát triển tốt và có nấm cộng sinh.· Cây không bị cụt ngọn, không nhiều thân.
TRỒNG RỪNG 1. Khu vực trồng Keo lá tràm.– Keo lá tràm có thể gây trồng được trên nhiều vùng thuộc các tỉnh Thanh Hoá và Nghệ An– Keo lá tràm giới hạn trồng trên các nhóm dạng lập địa “D” và “C”. 2. Phương thức trồng. (1). Trồng làm cây phù trợ cây bản địa lá rộng, chịu bóng– Trồng hỗn giao theo hàng với cây bản địa lá rộng như: Trám trắng, Dẻ đỏ…- Bố trí trồng cây Keo lá tràm xen giữa các hàng cây lá rộng (2). Trồng làm cây “đến trước” để sau đó trồng cây bản địa- Trồng trên diện rộng hoặc hỗn giao với Thông theo đám, sau 2-3 năm trồng cây bản địa lá rộng dưới tán.– Trong các đám hỗn giao Keo với Thông bố trí theo hàng như trồng Thông. 3. Cự li mật độ trồng ban đầu.(1). Đối với trồng làm cây phù trợ cây bản địa lá rộng.– Cây Keo lá tràm: Cự li 3x2m. Mật độ 1.660cây/ha- Cây bản địa lá rộng: theo quy định của Dự án đối với từng loài cây(2). Đối với trồng làm cây đến trước- Cây Keo lá tràm: Cự li 3x2m. Mật độ 1.660cây/ha– Cây bản địa lá rộng trồng dưới tán sau 2-3 năm: theo quy định của Dự án đối với từng loài cây 4. Thời vụ trồng.· Vụ Xuân: Từ 10.2 đến 30.3.· Vụ Thu: Từ tháng 7 – 9 5. Xử lí thực bì.– Nơi thực bì thưa thớt, đất trống trảng cỏ: Không cần xử lí thực bì.– Nơi có thực bì rậm rạp nhiều tế guột: Xử lí thực bì cục bộ theo băng chừa băng chặt song song với đường đồng mức. Băng chặt rộng 2m, băng chừa rộng 1m. Cự ly giữa các hàng: 3m- Trong băng chặt: Phát dọn hết cỏ dại cây bụi, với loài cây có khả năng tái sính phải cuốc lật gốc ra ngoài băng chừa.– Công việc xử lí thực bì phải hoàn thành trước khi trồng rừng 1 – 2 tháng. 6. Cuốc hố.– Quy cách hố: 40x40x40cm.– Hố bố trí so le hình nanh sấu giữa các hàng.- Khi cuốc để riêng phần đất tốt: đất đen tới xốp ra một bên.– Thời gian cuốc hố phải hoàn thành trước lúc trồng rừng từ 1 – 2 tháng. 7. Lấp hố kết hợp bón phân.– Lấp hố bằng đất tốt khi cuốc lên để riêng và đất xung quanh cùng với cỏ rác, thảm khô mục lấp phần đáy hố.– Phân bón lót N:P:K = 5:10:3 trộn đều với phân vi sinh hữu cơ theo tỷ lệ 1:1. Mỗi cây bón 60g.- Vun đất theo hình mui rùa. – Trồng cây vào những ngày có mưa nhỏ hoặc râm mát. Tránh trồng vào những lúc trưa nóng hoặc có gió mùa Đông bắc.- Trình tự trồng từ đỉnh xuống chân đồi.– Khi trồng nhất thiết phải rạch vỏ bầu. Dùng dao lam hay kéo sắc rạch bầu, tránh hư hại bầu.- Dùng cuốc hoặc xẻng bới 1 lỗ giữa hố sâu bằng chiều cao của bầu cây trồng. Đặt cây sao cho cổ rễ ngang mặt hố, rồi vun đất xung quanh cho kín. Có thể dùng tay hoặc chân dẫm chặt xung quang gốc cây, tránh nhẵm vào bầu làm vỡ bầu.
C. Chăm sóc và bảo vệ rừng Sau khi trồng rừng cần chăm sóc và bảo vệ liên tục trong 8 năm cho đến khi khép tán, đặc biệt 4 năm đầu nhằm bảo đảm tỷ lệ sống cao và cây sinh trưởng tốt. 1. Chăm sóc rừng mới trồng.
1.1.Chăm sóc năm đầu .
– 2 lần với cây trồng vụ xuân và 1 lần với cây trồng vụ thu.– Lần 1 ngay sau khi trồng rừng 1 – 2 tháng (tháng 5,6)- Lần 2 vào các tháng:11, 12.– Trồng dặm những cây chết- Phát dọn dây leo, cây bụi cỏ dại trong rạch trồng cây.– Xới đất xung quanh hố với đường kính rộng 40 – 50cm.- Bảo vệ không cho gia súc phá cây. Phát hiện những cây bị nhiễm nấm cắt bỏ phần lá bị bệnh, những cây bị nặng nhổ đem đốt tránh lây lan.– Phòng chống cháy rừng bằng thi công các đường băng cản lửa.Trường hợp không tiến hành bón thúc trước khi trồng cây vì lí do nào đó thì tiến hành bón phân vào thời điểm xới đất, vun gốc lần chăm sóc đầu tiên. Liều lượng như quy định trên và bón cách gốc 5 – 10cm. Quy định hướng bón để dễ kiểm tra. – 2 lần vào các thời điểm đầu và cuối mùa mưa.- Phát dọn dây leo, cỏ dại, cây bụi trong rạch trồng cây.– Trồng dặm những cây chết.- Xới đất xung quanh gốc đường kính rộng 50cm, sâu 3 – 4cm, vun gốc kết hợp bón thúc vào lần chăm sóc đầu.– Bón phân N:P:K=5:10:3 kết hợp trộn đều với phân vi sinh hữu cơ tỷ lệ 1:1. Liều Lượng phân bón: 100g/cây.- Bảo vệ kết hợp chăm sóc những cây tái sinh mục đích mới xuất hiện.– Bảo vệ không cho gia súc phá và phòng chống cháy rừng: Duy tu các đường băng cản lửa. 1.3. Năm thứ 3.– 2 lần vào các thời điểm đầu và cuối mùa mưa.– Phát dọn dây leo, cỏ dại, cây bụi trong rạch trồng cây.- Trồng dặm những cây chết.– Xới đất xung quanh gốc cây với đường kính rộng 60cm, sâu 3 – 4cm, vun gốc.- Bảo vệ kết hợp chăm sóc cây tái sinh mục đích.– Bảo vệ không cho gia súc phá và phòng chống cháy rừng: Duy tu các đường băng cản lửa. 1.4. Năm thứ 4.– 1 lần vào các thời điểm đầu mùa mưa.– Phát dọn dây leo, cỏ dại, cây bụi chèn ép cây trồng.- Bảo vệ kết hợp chăm sóc cây tái sinh mục đích.– Bảo vệ không cho gia súc phá và phòng chống cháy rừng: Duy tu các đường băng cản lửa.- Trong phương thức trồng làm cây phù trợ đối với cây trám trắng, thì tỉa cành hoặc điều chỉnh mật độ sớm để không ảnh hưởng đến nhu cầu ánh sáng của cây trồng chính. 2. Chăm sóc nuôi dưỡng rừng non.– Trong giai đoạn này chủ yếu bảo vệ không để cháy rừng.- Nơi có thực bì rậm rạp, cần phát luỗng thực bì trước mùa hanh khô.– Điều chỉnh khoảng không, loại bỏ cây bụi, tái sinh phi mục đích chèn ép cây trồng.- Tỉa cành: những cành khô, những cành thấp không có khả năng quang hợp và những cành chèn ép cây trồng chính.– Tỉa thưa Keo khi xuất hiện sự chèn ép đến cây trồng chính D. Nghiệm thu rừng trồng 1. Mục đích nghiệm thu ngay sau khi trồng rừng.– Đánh giá loài cây trồng với khuyến cáo của điều tra lập địa.– Đánh giá diện tích rừng trồng so với diện tích thiết kế.- Đánh giá chất lượng cây con đem trồng theo tiêu chuẩn của dự án. Trường hợp không đúng, các chủ vườn ươm chịu trách nhiệm.– Đánh giá kỹ thuật kỹ thuật phát băng, cuốc hố, trồng cây. Trường hợp thi công không đúng quy trình dẫn đến cây con bị chết, các chủ rừng phải chịu trách nhiệm.
2. Nghiệm thu chăm sóc rừng hành năm theo định kì của dự án quy định.Tổ chức nghiệm thu đánh giá các nội dung chăm sóc theo quy trình của dự án theo các thời điểm của dự án:· Đánh giá việc thực hiện chăm sóc rừng mới trồng theo thời điểm, kỹ thuật và diện tích.· Bón phân: Chủng loại, thời điểm bón, liều lượng và kỹ thuật bón phân.· Tỷ lệ cây đạt tiêu chuẩn về sinh trưởng hiện có.· Các biện pháp phòng chống cháy rừng, bảo vệ gia súc và người phá hoại.
Kĩ Thuật Đơn Giản Trồng Hoa Lan Rừng
Hoa lan rừng khi mang về trồng trong môi trường nhà ở nếu bị ánh nắng trực tiếp, nhất là nắng quá chiều sẽ gây lụi tàn nhanh chóng dù lan được cung cấp đầy đủ nước và khoáng hòa tan.
“Theo kinh nghiệm dân gian, muốn cho lan sinh trưởng tốt, môi trường thuận lợi nhất cho lan bám vào cây tươi nơi thoáng gió, ít ánh sáng chói. Vì vậy, khi lan đưa vào trồng trong chậu cần chăm sóc từ từ cho cây quen dần, không bón thúc phân hóa học quá sớm. Lúc lấy lan rừng cần bóc cả vỏ gỗ mục (loại lan đang sống) bó lại để nơi thoáng mát, ngày tưới vài ba lần bằng cách phun sương đều cả lá thân rễ. Chăm sóc cho lan một tháng rồi chiết thành nhánh trồng vào giò. Chú ý lót giò bằng mùn cưa hay xơ dừa đều không được nén chặt. Tránh để ánh nắng gay gắt, thỉnh thoảng đưa lan ra ngoài trời đêm. Chơi lan không nên bón nhiều phân hóa học, chỉ cần đủ nước, ánh sáng và không gian phù hợp là cây phát triển tốt.
Khi muốn lan ra hoa bất thường, vào dịp tết chẳng hạn, thì bón phân qua lá dành riêng cho lan. Song cần rất hạn chế bón thúc cho hoa vì sau mỗi đợt bón như vậy cây sẽ yếu sức. Tốt nhất là cách hai tháng lại thay lót giò một lần bằng xơ dừa mạt cưa. Hoa tàn thì cắt ngay cuống lá để tập trung dinh dưỡng nuôi cây lại sức. Tưới nước nhẹ đều đặn ngày vài ba lần là cây sống khỏe không cần bón phân.
Chăm sóc
Một trong những đặc điểm sinh học của lan là loài cây khó tính ở chỗ lan ưa ẩm và bóng râm nhưng nếu thiếu ánh sáng cũng giảm năng suất và phẩm chất. Nếu lan bị ánh nắng trực tiếp nhất là nắng quá chiều sẽ gây lụi tàn nhanh chóng mặc dù vẫn được cung cấp đầy đủ nước và khoáng hòa tan. Để phòng ngừa tác hại của nắng hạn đối với lan, ta cần chủ động tiến hành một số biện pháp sau:
Đối với phong lan: Không để cho nắng trời trực tiếp chiếu vào giỏ, bụi lan và toàn bộ giá thể (lồng lan), đặc biệt “kỵ” với nắng quái chiều và gió Tây (gió Lào). Nếu trồng đại trà thì phải làm giàn bằng lưới nilon có lỗ để lan vẫn quang hợp được. Chú ý phun tưới (tốt nhất là phun sương mù nhân tạo) toàn bộ cây và giá thể theo kinh nghiệm “2 ướt 1 khô” trong ngày đó là vào các thời điểm trước bình minh và sau hoàng hôn. Lượng nước vừa đủ làm mát cây, ướt rễ và dự trữ.
Đối với địa lan: Chăm sóc như đối với phong lan, cần chú ý đảm bảo đất nền tơi xốp, nhiều mầu ở thể hữu cơ đang hoai mục là tốt nhất. Nên bổ sung từ 10-20% vụn gỗ mục (cả vỏ), 10-20% (theo khối lượng tổng thể) các mẩu than gỗ nhỏ luôn ẩm (nhưng không ướt sũng) để nhử rễ ăn ra mà ta quen gọi là hồ rễ. Tránh gió khô, gió lùa qua phần nổi của cây. Làm mát đất bằng phun tưới nước loang theo bóng tán. Cần loại bỏ ngay những lá già (úa vàng) ngăn chặn sâu bệnh bội nhiễm, tỉa các cành khô, rễ hết chức năng hấp thụ hơi nước và cộng sinh với vi khuẩn cố định đạm nuôi cây.
Không nên dùng NPK- loại dùng cho cây hoa màu, cây lương thực bón cho lan. Để cây tươi lâu đẹp bền, hoa sai thắm màu, hương đậm có thể thúc cho lan (phun tưới toàn bộ giá thể) nước gạo mới vo, nước ngâm tro hoai và rắc xỉ than (nguồn phân vi lượng tổng hợp). Nếu có điều kiện lấy bông (hoặc vải bông cotton) nhúng vào dung dịch glicerin 10- 15% cuốn vào cổ rễ lan để giữ ẩm.
Cách trồng và chăm sóc cây phong lan
Phong lan là loài hoa nở lâu ngày và được nhiều người chọn để làm đẹp cho nhà mình. Tuy nhiên, đây là một loại hoa khó trồng, nếu không biết cách chăm sóc, nó rất dễ chết.
Phong lan trồng trong chậu
Nên trồng vào các chậu đất nung sẽ giúp phong lan phát triển tốt hơn. Chọn chậu có nhiều lỗ thoáng. Trước khi trồng hoa, phải rửa sạch chậu. Nên cho đất to xuống đáy chậu và đất nhỏ trên bề mặt.
Bạn có thể dùng thân cây còn sống để trồng ghép hoa phong lan, nhưng cần tỉa bớt tán nhánh. Chú ý là không phải vị trí nào của thân cây cũng có thể ghép được. Cây phong lan chỉ phát triển tốt khi chúng được ghép ở phía ánh sáng ban mai chiếu vào(hướng đông). Cách trồng này thích hợp cho hầu hết các giống lan, đặc biệt là lan rừng.
Nếu muốn ghép lan với các thân cây đã chết, bạn phải cắt cây thành khúc ngắn để dễ treo. Nên chọn những cây mục và bóc vỏ đi vì vỏ sẽ là nơi trú ẩn của côn trùng phá hoại. Buộc một miếng xơ dừa vào thân cây để giữ ẩm rồi buộc chằng lên đó gốc lan. Nếu bạn trồng vào những ngày mưa hoặc thời tiết quá ẩm thì không cần phải buộc xơ dừa.
Trồng thành băng xơ dừa
Chọn xơ của những quả dừa già và khô rồi xé ra từng mảnh to bằng nửa bàn tay. Sắp các mảnh sát nhau thành băng dài trên giàn gỗ hoặc tre và giữ chặt chúng lại bằng 2 thanh nẹp tre. Để tránh úng nước, bạn có thể đục một lỗ nhỏ dưới miếng xơ dừa rồi mới trồng. Sau 2-3 năm, khi xơ dừa đã mục có thể thay băng khác.
Kỹ Thuật Trồng Cây Tràm Ta
Tràm ta ra hoa, kết quả quanh năm, trổ hoa trong 3-5 ngày, thụ phấn nhờ côn trùng. Quả tồn tại trên cây một vài năm và hạt không rơi ra trừ khi cây bị ngừng cung cấp nước.
Mọc tự nhiên ở vùng ven biển, cận ven biển nhiệt đới bang Queensland, vùng Tây và Bắc nước Úc và mở rộng vào nội địa đến 350km dọc theo các sông chính. Thường mọc trên địa hình phẳng, thoai thoải ở các lòng sông, đồng bằng ven biển hoặc các đầm lầy theo mùa. Tràm ta còn phân bố đến Papua New Guinea và Đông Inđônêxia.
Ở nước ta chỉ có một loài tràm này chủ yếu phân bố tự nhiên và cũng đã được gây trồng nhiều trên các vùng đất ngập phèn thuộc các tỉnh ven biển miền Tây Nam Bộ.
Ở các nước Tràm ta mọc tự nhiên trên đất bùn đến đất sét nhiều bùn hoặc cát pha phủ trên đất sét, hoặc trên các đụn cát cũ và đất bồi nhiều đá ở biển nơi có nước ngầm hơi mặn.
Tràm ta thích hợp với vùng thấp có khí hậu nóng ẩm, đến cận ẩm, ấm ở bờ biển hoặc vùng nội đồng có đủ nước ngầm đến vùng nóng ẩm bán khô hạn. Thích hợp ở nơi mưa theo mùa, 422-4065mm /năm, khô 0-8 tháng. Nhiệt độ tối đa tháng nóng nhất 28-39 oC, tối thiểu tháng lạnh nhất 7-21 oC, trung bình năm 19-29 o C. Độ cao dưới 100-150m so với mực nước biển.
Ở Việt Nam, Tràm ta còn mọc tự nhiên ở Bình Thuận, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên trên đồi trọc và đất cát cố định cồn bãi cao, thấp và cũng bắt đầu được gây trồng thành công trên vùng đất bán ngập ở chân núi đá vôi Gia Viễn – Ninh Bình, Mỹ Đức – Hà Nội và ở ven hồ Hoà Bình, Thác Bà.
Tràm ta có thể chịu được ngập nước 6 tháng mùa mưa, nước ngập sâu 0,5-1,0m, thích hợp trên đất phèn yếu và trung bình với thành phần cơ giới sét nặng, chịu được đất có độc tố do hàm lượng muối phèn cao, H 2S, Fe++ và phản ứng đất rất chua với pH=2,5-3,0. Tuy nhiên, Tràm ta cũng có thể trồng được trên đất ít chua, không ngập nước.
Tràm ta là loài cây ưa sáng hoàn toàn, tán lá hẹp và thưa nên có thể mọc thành quần thụ thuần loài dày đặc từ 10000-20000 cây/ha.
Ưu tiên sử dụng hạt giống được thu hái ở các rừng giống, vườn giống, đặc biệt chọn vật liệu giống ở các xuất xứ đã được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật gồm xuất xứ 7V01 (Mộc Hóa – Long An), 7V05 (Tịnh Biên – An Giang), 7V07 (Vĩnh Hưng – Long An) để nhân giống phục vụ trồng rừng.
Chuẩn bị đất gieo ươm theo hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật. Có thể tưới phun bằng bình phun thuốc trừ sâu trực tiếp lên luống gieo hoặc tưới cho luống gieo theo phương pháp thẩm thấu.
Trộn hạt với cát mịn đã được rang khử trùng theo tỷ lệ 1 phần hạt : 5 phần cát. Tưới nước đủ ẩm cho luống gieo. Gieo hạt trên luống với lượng 2g hạt/m 2. 1 gam hạt gieo thu được 4000- 5000 cây mạ. Sau khi gieo cần phủ một lớp cát mỏng trên mặt luống. Làm khung che nilon để che mưa.
Phun tưới nước đủ ẩm thường xuyên cho luống gieo. Phun Benlát pha 1g/1 lít nước khi hạt nảy mầm được 10 ngày và phun định kỳ 15 ngày một lần để diệt nấm.
Khi gặp mưa lớn hoặc nắng gắt cần có biện pháp che chắn bảo vệ cây non. Phát hiện và có biện pháp diệt chuột, phòng trừ sâu ăn lá, sâu cuốn lá, sâu đục chồi, bệnh thối cây, bệnh đốm lá.
Tiêu chuẩn cây con đem trồng: Cây ươm 8-10 tuần tính từ khi cấy, cao 40-50cm, sinh trưởng tốt, không sâu bệnh, cụt ngọn.
Thời vụ trồng ở các tỉnh vùng cát ven biển Bắc Trung Bộ vào tháng 10-12, các tỉnh Nam Trung Bộ vào tháng 9-10.
Có thể trồng thuần loài hoặc hỗn giao theo băng với Keo lá liềm, Keo lá tràm, Bạch đàn trắng. Trồng rừng toàn diện hoặc trồng thành đai lưới ô vuông, ở giữa trồng cây nông nghiệp hoặc thả cá ở nơi bãi cát ngập nước quanh năm.
Trên bãi cát không ngập nước cần đào đất và trồng cây dưới rãnh, nơi bãi cát ngập nước mùa mưa phải lên líp cao 0,4-0,6m và nơi bãi cát ngập nước quanh năm phải lên líp cao 0,7-1,0m để trồng Tràm.
Mật độ trồng rừng trên các líp, không tính diện tích kênh, rạch là 6660 cây/ha với cự ly 1×1,5m hoặc 10000 cây/ha, cự ly 1x1m và có thể trồng tới 20000 cây/ha, cự ly 1×0,5m. Đào hố với kích thước 30x30x30 cm hoặc 40x40x 40cm.
Trồng dặm cây chết sau khi trồng 20-30 ngày. Sau 6 tháng chăm sóc lần 1, sau 12 tháng chăm sóc lần 2. Nội dung chăm sóc gồm phát dọn cỏ dại, xới đất và vun gốc cây. Năm thứ 2 phát cỏ, vun xới gốc và tỉa cành thấp. Năm thứ 3 vun xới gốc và chặt tỉa cành thúc đẩy sinh trưởng.
Áp dụng tiêu chuẩn ngành 04TCN-88-2006 – quy phạm kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy rừng tràm của Bộ NN&PTNT để phòng chống cháy một cách tích cực.
Tràm ta là cây gỗ đa mục đích. Gỗ nặng có tỷ trọng 0,75, dễ cưa xẻ, chịu lực cao nên được dùng làm giàn giáo trong xây dựng, làm dụng cụ gia đình, đặc biệt làm cọc cừ để xử lý móng nhà, ngoài ra củi tràm được ưa chuộng do nhiệt lượng cao, cháy đượm. Gỗ có thể làm giấy, dăm, than hoạt tính.
Lá Tràm ta chứa 0,7% tinh dầu được dùng chế dầu khuynh diệp,… Rừng tràm có nhiều hoa thơm và ra hoa gần quanh năm nên nuôi ong rất hiệu quả. Có thể kết hợp nuôi cá dưới rừng tràm và là nơi tụ họp tạo sân chim nổi tiếng có giá trị cảnh quan du lịch và môi trường sinh thái. Rừng tràm có tác dụng cải tạo đất, chống quá trình phèn hoá.
Khi rừng được 8-10 tuổi có thể khai thác bán làm gỗ cừ, dùng phương pháp đốt trước có điều khiển chừa lại 2000-4000 cây phân bố đều/ha có thể xúc tiến tái sinh tự nhiên luân kỳ 2 mà không cần phải trồng lại cho các rừng tràm trồng ở vùng Tứ giác Long Xuyên.
Ngoài ra đến tuổi 10-12 có thể tỉa thưa tầng dưới với cường độ mạnh để lấy gỗ nhỏ làm gỗ giấy, gỗ dăm, gỗ cừ,… để lại 300-400 cây to nhất/ha tiếp tục nuôi dưỡng để kinh doanh gỗ xẻ.
Mô hình Tràm ta trồng trên đất phèn nặng, mức nước ngập hàng năm sâu 50 cm, kéo dài 4-5 tháng ở Lâm trường Vĩnh Điền – Hà Tiên – Kiên Giang. Trồng giống tràm địa phương, cây con rễ trần 18 tháng tuổi, cao 1,2m, đường kính cổ rễ 0,4 cm, mật độ 10000 cây/ha, cự ly 1x1m. Trồng tháng 10/1992. Kết quả nơi có biện pháp tổng hợp lên líp, bón phân, làm cỏ rừng sinh trưởng tốt hơn hẳn so với nơi chỉ áp dụng các biện pháp riêng rẽ.
Nguồn: nghenong.com
Bạn đang đọc nội dung bài viết Kĩ Thuật Trồng Rừng Tràm trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!