Cập nhật nội dung chi tiết về Giới Thiệu Kỹ Thuật Trồng, Chăm Sóc Cây Củ Mài (Hoài Sơn) Của Trang Trại Dược Liệu Lương Việt mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
04/08/2019
Trại dược liệu Lương Việt với hơn 10 năm kinh nghiệm trồng củ mài (hoài sơn) chất lượng cao, bán buôn bán lẻ mài tươi, mài khô nguyên củ, mài khô thái lát, cây giống toàn quốc …
Củ Mài (Dioscorea persimilis Prain et Burkill)
Tên khác: Khoai mài, Sơn dược Họ: Củ nâu (Dioscoreaceae)
PHẦN 1: ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÂY CỦ MÀI
1. Là cây thân leo, có củ. 2. Thân dài, nhỏ, chiều dài trên 3 m, cây có thể mọc quấn vào các thân cây khác hoặc các vật khác. 3. Lá mọc đối hình tim hoặc hình mũi tên, đầu nhọn, cuống dài, xanh, gân lá hình lưới. Giữa những cuống lá mọc những dái củ hình bầu dục hoặc hình quả trứng; dái củ này gọi là trứng củ mài và có thể để gây giống. Quả của củ mài là loại quả có góc khía như loại quả vừng có ba góc kín hình cánh chim. Hạt có cánh hình bầu dục. Dưới đất có củ, phần trên nhọn, phần dưới có hình chiếc dùi cui dài khoảng 30-65 cm, đường kính từ 5-10 cm. 4. Vỏ ngoài màu nâu, vỏ mỏng và sù sì, mọc nhiều rễ phụ, mặt cắt ngang không đều, màu trắng hoặc trắng vàng, có nhựa, không mùi. 5. Củ mài đòi hỏi về khí hậu không khắt khe, vùng có khí hậu không quá rét đều có thể trồng; tuy nhiên củ mài lại yêu cầu về đất tương đối khắt khe. Củ mài là loại rễ mọc sâu, mức chịu phân bón tương đối mạnh, thích nghi trồng ở nơi đất màu mỡ tầng đất sâu, hướng mặt trời ấm áp, kín gió, đất xốp, thoát nước tốt. Đất trũng, đất lầy, đất kiềm đều không thích nghi vì sức hút nước của củ mài yếu, nước nhiều dễ bị thối củ. Ở những nơi có sâu bệnh thì không thể trồng liên tục, sau khi trồng hai năm cần phải luân canh các loại cây khác một năm. Củ mài là loại dễ mắc bệnh, do đó không nên luân canh những loại cây hay có bệnh. Ngoài ra ở loại đất có nguồn bệnh cũng không nên trồng củ mài, vì sau khi bị bệnh củ mài sẽ mọc không tốt, ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng củ.
Tên khác: Khoai mài, Sơn dượcHọ: Củ nâu (Dioscoreaceae)
6. Cây dễ nhầm lẫn
Bên cạnh củ mài, còn nhiều loài khác cũng cho củ ăn được; nhưng không chế biến thành hoài sơn như; Dioscorea glabra Roxb., D.pyrifolia Kunth., D. decipiens Hook., D.intempestiva var. chevalierii Prain et Burkill, D. intempestiva Prain et Burkill, D.hamiltoni Hook., D.brevipetiolata Prain et Burkill, D.kratica Prain et Burkill.
Cây củ mài Lương Việt
Củ mài khô (Hoài sơn khô) Lương Việt
Củ mài khô (Hoài sơn khô) Lương Việt
PHẦN 2: KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC CỦ MÀI
I. CHUẨN BỊ GIỐNG 1. Chọn giống:
Củ mài được trồng bằng đầu củ và dái củ.
2. Cách bảo quản cất giữ giống: – Những đoạn củ dùng để làm giống sau khi lấy về đem phơi ở những chỗ thoáng gió trong nhà, phơi độ 6-7 ngày. Phơi như vậy để mặt cắt khô lại, sau khi phơi xong đem về để vào hố hoặc hầm ở dưới đất rồi vụ sau trồng. Nếu không để ở hố, hầm thì chọn một góc nhà khô ráo, trải một lớp cát hơi khô, rồi đặt “đầu củ” lên, xếp cao độ 17-20 cm, lại phủ lên 7-10cm cát, cứ xếp nhiều tầng như vậy, tầng trên cùng phủ một lớp rơm rạ để chống lạnh và bốc hơi. Trong thời gian bảo quản giống, nhiệt độ ở trong nhà không được quá cao, nếu không đầu củ sẽ bị hỏng. Để bảo đảm chắc chắn, trong thời gian cất giữ cần chọn ngày nắng ráo mà kiểm tra, nếu phát hiện khô quá thì cần đổi cát ngay nếu ẩm quá thì có thể dàn cát ra đợi phơi khô lại vun vào. – Dái củ: phơi hơi khô rồi để ở góc nhà hoặc để vào hố, hầm. Trải một lần cát hơi ẩm (cát nhỏ) xen kẽ với một lớp dái củ cao 7-10 cm và cứ thế xếp nhiều tầng, tầng trên cùng phủ rơm rạ và kiểm tra thường xuyên đảm bảo độ ẩm nhất định, đồng thời ngăn ngừa chuột. Nếu ở những vùng mùa đông tương đối ấm áp, “dái củ” có thể để ở hòm gỗ hoặc hộp giấy; tuy nhiên cần chú ý thông hơi, tránh mốc, thối.
II. LÀM ĐẤT, ĐÁNH LUỐNG, BÓN PHÂN
– Củ mài là loại cây mọc rễ sâu, nên làm đất càng sâu thì năng suất càng cao, để phơi ải. Đến năm sau, trước khi trồng, mỗi mẫu bón lót 5.000-7.500 kg phân chuồng vv. rắc đều phân lên mặt đất, sau đó bừa lấp phân, cuối cùng đánh luống. Nếu ở nơi đất đã trồng năm trước thì năm đó không cần phải cuốc đất, đến mùa xuân năm sau chỉ bón phân lót và cày bừa là được.
– Cần xử lý đất chua, xử lý mầm bệnh trước khi xuống giống – Đánh luống cao tầm 50cm, luống cách luống 60cm.
III. KỸ THUẬT TRỒNG
Thời vụ thích hợp nhất để trồng củ mài ở miền Bắc là vào mùa xuân và ở miền Nam là vào đầu mùa mưa. Trên luống cứ cách khoảng 20 cm xẻ một rãnh, sâu 7 cm, sau đó đặt nằm giống củ hoặc cây con vào rãnh. Chú ý đặt mầm đều ngả về một hướng, mỗi mầm cách nhau khoảng 20 cm, sau đó phủ đất lên.
IV. KỸ THUẬT CHĂM SÓC
1. Tưới nước: sau khi trồng nên tưới ngay để cây dễ mọc mầm, sau này mưa nhiều hay ít mà bố trí tưới cho thích hợp, với nguyên tắc đừng để cho đất quá khô, và mỗi lần tưới nước nên xem tình hình cây mọc; tưới nước không nên ngập cây, như vậy cây sẽ mọc đều và khoẻ. 2. Cắm cọc cho dây leo: Sau khi cây đã mọc được khoảng 30 cm, mỗi cây cắm một cọc, cọc dài khoảng 2m và tụm đầu trên của bốn cọc gần nhau ở hai hàng lại để chống gió làm đổ. Đồng thời đem quấn dây vào cọc, như vậy có thể tăng sản lượng của từng cây một. 3. Xới đất làm cỏ: Cùng với việc cắm cọc cần làm cỏ đợt một, làm cỏ với độ sâu khoảng 3 cm, giữa các hàng có thể dùng cuốc, nhưng giữa các cây không dùng cuốc để tránh tổn thương cho cây, nếu có cỏ thì dùng tay mà nhổ. Làm cỏ theo đợt. Cần chú ý khi làm cỏ không làm gãy cây, nếu thấy dây bò ra đất thì đem quấn ngay lên cọc. Những cây chưa có cọc, trước khi cây bò lan ra đất, nếu thấy có cỏ thì nhổ đi, sau đó không phải làm cỏ nữa. 4. Bón phân thúc: Sau khi cây mọc và trước khi chưa đóng cọc, do dây leo bò ra đất thì không nên bón phân, nếu cần phải bón phân thì kết hợp với tưới nước. 5. Phòng trừ sâu bệnh: 5.1. Bệnh hại: 5.1.1. Bệnh phấn trắng: Bệnh phát sinh vào những ngày oi bức nhất, trên lá có những đốm trắng bằng hạt gạo, sau đó dây bị khô héo dần, củ bị tổn thương. Mắc bệnh này bởi một loại nấm gây nên. Cách phòng trị: + Không trồng cây ở nơi ẩm ướt, úng nước. + Phối hợp bón các loại phân lân, đạm, kali + Dùng bocđô (1:1:140) để phun. 5.1.2. Héo vàng: Trong thời gian cuối kỳ của những ngày nóng bức nhất, lúc mưa, lúc nắng, cây củ mài có lúc bị khô héo hàng loạt. Cách phòng trị: Sau khi phát hiện cần kịp thời cắt hết những dây khô héo, sau đó dùng nước giải tưới một lượt, như vậy cây có thể phục hồi xanh tươi, nếu không kịp thời phòng trị cây có thể bị chết hàng loạt. 5.2. Sâu hại: 5.2.1. Bọ rùa: Loại sâu này chủ yếu cắn rễ cây, củ không to được và củ sau khi bóc vỏ có màu vàng nâu, luộc không chín mà mùi vị đắng; khi khô thì cứng như gân bò, vì vậy người ta gọi là củ mài gân bò, phẩm chất kém nhất. Cách phòng trị: dùng 666-6% thấm nước trộn với 50 phần bột gạo, sau đó thêm 50 phần nước, làm thành những miếng như bã đậu và đem rắc để triệt sâu; hoặc kết hợp với nước tưới, bọc thuốc vào một túi con đặt ở đầu luống nước chảy vào tưới cho các luống để giết trùng. Hoặc khi bón thúc mỗi mẫu dùng 4-5 kg phèn đen cho vào phân mà bón như vậy cũng diệt được loại sâu này. 5.2.2.Sâu kén đất: Loài này tuy làm hại không lớn lắm, nhưng sau khi cắn cây, củ cũng thành màu vàng và cũng thành củ mài gân bò, cách phòng như trên. 5.2.3.Sâu làm thối củ: Loài này còn có tên là sâu đục củ. Loài này là một loại sâu con màu gio đen, dài chừng 2-2,3 cm. Từ tháng 7-9 thường tụ ở mặt sau lá thành từng bầy ăn lá cây, chúng có thể ăn hết lá cây làm hại rất lớn. Cách phòng trị: dùng 666-6% thấm nước hoà với 200 lần nước mà phun.
BÀI VIẾT CHỈ MANG TÍNH CHẤT THAM KHẢO
Bà con cần hướng dẫn chuyên sâu hơn về kỹ thuật trồng và chăm sóc, thu hoạch củ mài (hoài sơn), xin vui lòng liên hệ:
TRANG TRẠI DƯỢC LIỆU LƯƠNG VIỆT Văn phòng giao dịch: Tòa CT5 Khu đô thị Xa La, Quận Hà Đông, TP. Hà Nội Trang trại: Đội 2 – Xã Bảo hiệu – Huyện Yên Thủy – Tỉnh Hòa Bình Email: luongvietco@gmail.com Hotline 24/7: 0903 231 805
Kỹ Thuật Trồng Cây Dược Liệu
Cây Đinh lăng (Polyscias fruticosa) thuộc họ Ngũ gia bì, có kỹ thuật trồng cây không quá khó. Loài cây này là một loại dược liệu quý bởi con người có thể sử dụng được toàn bộ cây từ rễ, củ, cành và lá để làm thuốc trị bệnh, bồi bổ và làm gia vị cho các món ăn như gỏi cá, thịt chó…
Đinh lăng thuộc loại cây nhỏ, cao khoảng 0,8-1,5m, thường được trồng làm cây cảnh trước nhà hoặc chùa, miếu. Cây có lá kép, mọc so le, lá 3 lần xẻ lông chim, mép khía có răng cưa. Hoa nhỏ màu trắng, mọc thành tán. Quả dẹt, dài 3-4mm, dày khoảng 1mm. Lá đinh lăng phơi khô, nấu lên có mùi thơm đặc trưng, dân gian gọi nôm na là mùi “thuốc bắc”. Lá tươi không có mùi thơm này.
Đinh lăng là cây sống nhiều năm, ưa ẩm, ưa sáng nhưng cũng chịu hạn, chịu bóng nhưng không chịu úng ngập. Cây có biên độ sinh thái rộng, phân bố trên khắp các vùng sinh thái, có thể phát triển trên nhiều loại đất nhưng tốt nhất là đất pha cát. Cây phát triển mạnh khi nhiệt độ dưới 25 độ C (từ giữa thu đến cuối xuân).
Phân loại cây đinh lăng
Đây là loài đang sử dụng nhiều nhất: đinh lăng lá tròn (Polyscias balfouriana Baill), đinh lăng trổ( Đinh lăng viền bạc), đinh lăng lá to (Đinh lăng ráng Polyscias filicifolia (Merr) Baill, đinh lăng đĩa (Polyscias scutellarius (Burm f) Merr), đinh lăng rang (lá 2 lần kép, thân màu xám trắng, tên gọi khác là Polyscias serrata Balf). Theo dân gian, đinh lăng lá nhỏ có hai loại chính: Đinh lăng nếp và đinh lăng tẻ, kỹ thuật trồng loài cây này không quá khó.
Đinh lăng nếp là loại lá nhỏ, xoăn, thân nhẵn, củ to, rễ nhiều và mềm, vỏ bì dày cho năng suất cao và chất lượng tốt, đây là loại hay được chọn để làm giống. Đinh lăng tẻ là loại lá sẻ thùy to, vỏ thân xù xì, màu xanh nhạt, củ nhỏ, rễ ít và cứng, vỏ bì mỏng, năng suất thấp. Loại này người dân không nên trồng.
Chuẩn bị trồng
Đinh lăng là loại cây chịu hạn, không ưa đọng nước, phát triển tốt ở vùng đất pha cát, tơi xốp, có độ ẩm trung bình. Khi trồng đại trà, diện rộng, người dân phải cày bừa làm đất tơi, lên luống cao 20cm, rộng 50cm. Nếu ở vùng đồi, người trồng phải cuốc hốc sâu 20cm, đường kính hố 40cm. Đinh lăng trồng bằng cách giâm cành và có thể trồng được cả bốn mùa nhưng tốt nhất là giữa xuân.
Thời vụ: Người nông dân nên trồng vào mùa xuân, từ tháng 1-4. Vào mùa hè, cây được trồng cần phải giâm hom giống 20-25 ngày cho ra rễ mới đem trồng. Người trồng có thể giâm cành bằng cách đem hom cắm xuống đống cát để trong bóng mát, khoảng cách trồng: 40 x 50 cm hoặc 50×50 cm. Mật độ của cây là khoảng 40.000 đến 50.000 cây/ha.
Phân bón và kỹ thuật bón phân
Bón lót: Mỗi hecta, người dân nên bón lót 10- 15 tấn phân chuồng, 400- 500 kg phân NPK, bón toàn bộ lượng phân lót, tránh bón sát và hôm giống.
Bón thúc: Ở năm đầu, vào tháng 6 sau khi trồng, cây cần được bón thúc 8kg urê/sào bằng cách rắc vào má luống rồi lấp kín. Cuối năm thứ 2, vào tháng 9 sau đợt tỉa cành, cây nên được bón thêm phân chuồng 6 tấn/ha và 300 kg NPK+100 kg kali. Ngoài ra người trồng cần bón thúc vào mùa thu, vun đất phủ kín phân bón để cây có điều kiện phát triển mạnh vào năm sau
Kỹ thuật trồng
Người trồng đặt hom giống cách nhau 50cm, đặt nghiêng hom theo chiều luống, giữa các hom bón lót bằng phân chuồng 4kg/sào và 20kg phân NPK (tránh bỏ phân sát hom giống), sau đó lấp hom, để hở đầu hom trên mặt đất 5cm. Khi trồng xong, người dân nên phủ rơm rạ hoặc bèo tây lên mặt luống để giữ độ ẩm và tạo mùn cho đất tơi xốp. Nếu đất khô, người nông dân phải bơm nước ngập 2/3 luống hoặc tưới nước đảm bảo độ ẩm cho đất trong vòng 25 ngày nhưng không được để ngập nước, nếu trời mưa liên tục phải thoát nước ngay để tránh thối hom giống. Có hai cách trồng.
Một là kết hợp làm cảnh và thu dược liệu: Người dân có thể trồng thành từng hốc hoặc từng hàng thẳng tắp hoặc theo hình dáng tuỳ thích (hình thoi, vòng tròn, vòng ô voan…)
Trồng từng hốc: Người trồng đào hốc có đường kính 1m, sâu 35-40cm, lót đáy hố bằng miếng PE hay nilon cũ (để rễ cây tập trung trong hố, khi thu hoạch sẽ lấy gọn cả bộ rễ một cách dễ dàng). Sau đó, người dân trộn đất với phân chuồng hoai mục (10kg) cho đầy hố, nén đất xuống rồi trồng cây đã ươm vào, ba cây một hố theo hình tam giác đều, cây cách cây 50cm. Cây cần được tưới nước và ấn chặt đất xung quanh gốc, người chăm nên vun đất tạo thành vồng có rãnh thoát nước xung quanh. Nếu có, bèo tây ủ vào gốc để giữ ẩm là tốt nhất.
Trồng theo hàng thẳng hoặc tạo hình dáng: Bước đầu tiên là người trồng đào băng rộng 40cm, sâu 35-40cm, lót nilon cũ hoặc PE cũ xuống đáy và trồng cây như trên (không đặt cây theo hình tam giác đều mà chỉnh theo hàng thẳng hoặc hình dáng định trồng).
Hai là trồng trên diện tích lớn: Người nông dân cần làm luống rộng 60cm, cao 35-40cm, bổ hốc thành hai hàng lệch nhau, cây cách cây 50cm. Bước tiếp theo là người dân cho phân hoai mục xuống, lấp đất mỏng, đặt cây đã ươm vào trồng, tưới nước rồi ấn chặt đất quanh gốc. Nếu cây được trồng trên đất dốc, người trồng phải làm luống theo đường đồng mức để tránh trôi màu, hạn chế thoát nước nhanh sau khi mưa.
Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh
Đinh lăng là cây phát triển quanh năm, chịu hạn, ít sâu bệnh. Hầu như không cần sử dụng thuốc BVTV. Từ năm thứ 2 trở đi, người chăm cần tỉa bớt lá và cành, mỗi năm 2 đợt vào tháng 4 và tháng 9. Mỗi gốc chỉ nên để 1-2 cành to.
Đinh Lăng là cây phát triển quanh năm, chịu hạn và ít bị sâu bệnh hại. Giai đoạn đầu mới trồng, cây thường bị sâu xám cắt lá mầm và ăn vỏ thân, giai đoạn cây phát triển mạnh hầu như không bị sâu hại.
Trong giai đoạn đầu, người trồng cần chú ý phòng từ kịp thời tránh ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây. Người chăm bón có thể dùng thuốc hoặc bắt sâu bằng tay vào sáng sớm hoặc chiều muộn. Ngoài ra, người dân có thể dùng một số loại thuốc phòng trừ sâu xám như sau: Dùng thuốc đơn TP-Pentin 18EC, Basudin 50EC; Shecpain 36EC, Gottoc 250EC hoặc phối hợp hai loại thuốc khác nhau: Diptere 80WP + Karate 2,5EC, Sevin 40% + Sherpa 25EC, Ganoi 95SP + Abamectin 36EC, Regent 800WG + Sokupi 0,36AS… hoặc dùng một trong các loại thuốc sâu dạng hạt, bột như: Basudin 10H, Vibasu 10G, Furadan 3G, Regent 3G… trộn một phần thuốc với 10 phần đất bột khô rắc vào quanh gốc cây khi cấy trồng có tác dụng phòng trừ sâu xám rất tốt.
Thu hái, chế biến, bảo quản
Lá: Khi chăm sóc, người trồng cần tỉa bớt lá chỗ quá dầy. Khi thu vỏ rễ, vỏ thân , người thu nên thu hoạch lá trước, sau đó mới chọn hom giống. Lá thu được đem hong gió cho khô là tốt nhất (âm can), cuối cùng sấy cho thật khô.
Vỏ rễ, vỏ thân: Người nông dân có thể thu hoạch vào cuối thu năm thứ 2 (cây trồng 5 năm có năng suất vỏ rễ vỏ thân cao nhất). Rễ và thân câycần được rửa sạch đất cát, cắt rời rễ lớn, hong gió một ngày cho ráo nước (giúp bóc vỏ dễ hơn) để riêng từng loại vỏ thân, vỏ rễ sau khi bóc. Rễ nhỏ có đường kính dưới 10mm không nên bóc vỏ, loại đường kính dưới 5mm nên để riêng. Rễ cần được phơi, sấy liên tục đến khi khô giòn.
Phân loại: Loại I là vỏ, rễ cây loại có đường kính (lúc tươi) từ 10mm trở lên. Loại II là vỏ thân và vỏ rễ có đường kính dưới 10mm (vỏ thân gần gốc dày trên 2mm). Loại III là các loại rễ và vỏ thân mỏng dưới 2mm.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
Viện nghiên cứu cây đàn hương và thực vật quý hiếm (ISAF)
Điện thoại: 0462942824
Di động: 0973407000
E-mail: danhuongando@gmail.com
Kỹ Thuật Trồng Cây Dừa Cạn – Mạng Dược Liệu
DỪA CẠN
Tên khoa học: Catharanthus roseus (L.) G.Don.
Họ: Trúc đào (Apocynaceae).
Tên khác: Bông dừa, hoa hải đằng, trường xuân hoa, phjắc pót đông (tày).
Tên vị thuốc: Dừa cạn.
Phần I: Đặc điểm chung
a. Nguồn gốc, phân bố
Chi Catharanthus G. Don có nguồn gốc ở Madagasca với 8 loài, trừ loài C. pusillus (Murr) G. Don có thể tìm thấy ở Ấn Độ, Srilanca. Từ Madagasca loài dừa cạn được di nhập sang nhiều nước nhiệt đới Nam Á cũng như Đông Nam Á trong đó có Việt Nam và đảo Hải Nam Trung Quốc. b. Đặc điểm thực vật Dừa cạn là cây thảo sống lâu năm, cao 40 – 60 cm, phân nhiều cành. Thân mọc thẳng, hình trụ, nhẵn, lúc non màu xanh lục nhạt, sau
chuyển màu đỏ hồng. Lá mọc đối, hình bầu dục, gốc thuôn đầu tù hoặc hơi nhọn, dài 4 – 6 cm, rộng 2 – 3 cm, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt. Hoa màu hồng hoặc trắng, mọc riêng lẻ ở kẽ lá gần ngọn; đài 5 thùy, hình ống ngắn, tràng có 5 cánh hợp, ống tràng hẹp phình ra ở dưới các cánh hoa; nhị 5 đính vào họng của ống tràng, chỉ nhị rất ngắn; bầu gồm 2 lá noãn dính nhau ở vòi. Quả gồm 2 đại dài 2,5 – 3 cm, mọc thẳng hơi choãi ra; hạt nhỏ, hình trứng, màu nâu nhạt hoặc nâu đen. Mùa hoa quả tháng 4 – 5 và tháng 9 – 10. c. Điều kiện sinh thái
Dừa cạn là loại cây ưa sáng, ưa ẩm và có khả năng chịu được hạn. Dừa cạn ra hoa quả nhiều hàng năm. Cây mọc từ hạt trong tự nhiên vào khoảng 40%. Nếu được xử lý có thể tăng lên 90%. Cây trồng từ hạt có thể ra hoa quả sau 4 – 5 tháng. Trong thời kỳ sinh trưởng mạnh, nếu bị cắt cây tái sinh cây chồi khỏe.
d. Giá trị làm thuốc
Bộ phận sử dụng: Lá hoặc rễ dừa cạn phơi khô hay sấy khô.
Công dụng: Dừa cạn được dùng để thông tiểu tiện, chữa bệnh đi tiểu đỏ và ít, kinh bế, huyết áp cao. Có nơi dùng làm thuốc đắng, chát, ra mồ hôi. Chữa tiêu hóa kém và lỵ (cấp và mãn tính). Điều trị bệnh Hodgkin, bệnh bạch cầu lympho cấp. Vinblastin từ lá dừa cạn ở Việt Nam đã được chiết xuất dùng chữa bệnh bạch cầu.
Phần II. Kỹ thuật trồng trọt
a. Chọn vùng trồng
a) Việt Nam, dừa cạn mọc tự nhiên khá nhiều ở vùng bãi cát ven biển từ Hải Phòng đến Kiên Giang. Nơi tập trung nhiều nhất thuộc các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa. Ngoài ra còn có ở Côn Đảo, Phú Quốc. Cây còn mọc ở những vùng đồi, trên đất pha cát hoặc sỏi đá, độ cao tới 1500 m. Trong điều kiện trồng trọt cây sinh trưởng mạnh, khối lượng chất xanh thu được có thể cao gấp đôi cây mọc tự nhiên.
b. Giống và kỹ thuật làm giống
Tiêu chuẩn hạt giống:
Khối lượng 1000 hạt 2 – 3 gam.
Nhiệt độ nẩy mầm tối ưu: 20 – 22oC.
Tỷ lệ nẩy mầm: Trên 75%.
Dừa cạn có thể nhân giống bằng cả hữu tính (từ hạt) và vô tính (giâm cành) nhưng khi sản xuất thường nhân giống bằng hạt. Mỗi hecta cần gieo 500 – 700 g hạt. Mỗi hecta vườn ươm gieo 3 – 4 kg hạt để trồng cho 7 – 8 ha dược liệu. Ngâm hạt 3 – 4 giờ, vớt ra để ráo rồi gieo lên luống vườn ươm, phủ rơm, rạ và tưới nước. Sau khoảng một tuần, hạt mọc, cần dỡ bỏ rơm rạ. Khi cây có 3 – 4 đôi lá thật (từ 40 – 45 ngày sau khi gieo) bứng đi trồng. Có thể gieo thẳng nhưng cách này tốn công chăm sóc hơn.
c. Thời vụ trồng
Thời vụ gieo hạt vào tháng 9 – 10 hoặc tháng 2 – c. Gieo vào mùa đông hạt lâu nẩy mầm vì thời tiết quá lạnh, nhiệt độ thấp. Gieo muộn hơn vào tháng 3 – 4, thời gian sinh trưởng bị rút ngắn, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng dược liệu dừa cạn sau này.
d. Kỹ thuật làm đất
Dừa cạn ưa đất cát pha, đất phù sa, chịu hạn nhưng kém chịu úng.
Đất sau khi được chọn, cày bừa kỹ, làm sạch cỏ trước khi gieo trồng. Chia đất thành từng luống rộng 80 – 90 cm, lên luống cao 20 – 25 cm, rãnh rộng 25 – 30 cm.
e. Mật độ, khoảng cách trồng
Mật độ 110.000 cây/ha.
Khoảng cách trồng 30 x 30 cm.
f. Phân bón và kỹ thuật bón phân Lượng phân bón Thời kỳ bón phân
Bón lót: Toàn bộ phân chuồng hoai mục và supe lân. Bón vào hốc hoặc bón theo rạch.
Bón thúc: Toàn bộ phân đạm urê. Bón làm 2 – 3 lần.
Lần thứ nhất tiến hành sau khi cây bén rễ.
Các lần sau cách nhau 25 – 30 ngày cho đến khi cây bắt đầu ra hoa. Tùy tốc độ sinh trưởng của cây, có thể bón thúc thêm phân kali trước khi cây ra hoa.
g. Kỹ thuật trồng và chăm sóc Kỹ thuật trồng
Khi cây có 3 – 4 đôi lá thật (từ 40 – 45 ngày sau khi gieo) được bứng đi trồng. Tưới nước đủ ẩm ngay sau khi trồng và duy trì đến khi cây bén rễ, hồi xanh. Có thể gieo thẳng theo rạch hoặc gieo vãi nhưng cách trồng này tốn công chăm sóc hơn.
Chăm sóc
Cần làm cỏ, xới đất, vun gốc, kết hợp với bón thúc. Mặc dù dừa cạn là cây chịu hạn nhưng cũng phải giữ đủ ẩm thường xuyên. Chú ý tháo nước khi gặp mưa lớn.
h. Phòng trừ sâu bệnh
Dừa cạn ít bị sâu bệnh phá hại. Chủ yếu chỉ có sâu xám (Agrotis ipsilon) gây hại ở giai đoạn khi mới trồng. Đặc điểm gây hại và biện pháp phòng trừ như sau:
Đặc điểm gây hại: Thường gây hại ở thời kỳ cây con. Loài sâu này thường gây hại vào ban đêm, ăn lá non hoặc cắn đứt ngang các thân và cành non. Sâu non màu xám đen hoặc màu nâu xám dọc theo hai bên thân có những chấm đen mờ.
Biện pháp phòng trừ
Cày, phơi ải đất trước khi trồng 2 tuần để tiêu diệt trứng và nhộng. Làm đất kỹ, sạch cỏ trước khi trồng, làm sạch cỏ quanh bờ để hạn chế nguồn ký chủ phụ của sâu.
Đối với những ruộng có diện tích nhỏ có thể bắt sâu bằng tay vào buổi sáng sớm hay chiều tối bằng cách bới đất quanh gốc cây bị sâu cắn để bắt sâu.
Dùng bẫy chua ngọt để bẫy bướm. Cách làm bẫy: Cho 4 phần
đường + 4 phần dấm + 1 phần rượu + 1 phần nước vào trong bình đậy kín, sau 3 – 4 ngày khi thấy mùi chua ngọt thì thêm vào 1% thuốc trừ sâu. Quấn giẻ hay bùi nhùi rơm rạ vào đầu gậy nhúng vào bả cắm trên bờ ruộng. Sau 2 – 3 ngày nhúng lại 1 lần. Bướm trưởng thành sẽ bay vào ăn bả chua ngọt và chết.
• Ruộng bị sâu hại nặng có thể sử dụng các loại thuốc trừ sâu như: Thiamethoxam (ví dụ Actara 25WG, 350FS), Abamectin (ví dụ Shertin c.6EC, e.0EC). Hòa thuốc với nước theo tỷ lệ khuyến cáo ở bao bì, phun vào chiều tối. Nếu mật độ sâu cao nên phun kép hai lần cách nhau 5 ngày.
i. Chế độ luân canh
Có thể trồng luân canh với các cây thuốc ngắn ngày như: Mã đề
============================
Kỹ thuật trồng cây thuốc (2013) TSKH Nguyễn Minh Khởi, TS Nguyễn Văn Thuận – ThS. Ngô Quốc Luật cùng các nhà khoa học khác của Viện dược liệu
Kỹ Thuật Trồng Cây Dược Liệu Bồ Công Anh
Tên khoa học: Lactuca indica L.
Họ: Cúc (Asteraceae).
Tên khác: Cây mũi mác, diếp dại, diếp trời, rau bồ cóc, rau mét, lin hán (Tày)…
Tên vị thuốc: Bồ công anh.
Cây bồ công anh
Phần 1: Đặc điểm sinh học
Nguồn gốc và phân bố Lactuca L. là một chi tương đối lớn, gồm những cây sống một năm, vài loài sống nhiều năm, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới Bắc bán cầu. Ở Ấn Độ có khoảng 25 loài, Việt Nam cũng có hơn 10 loài. Trong đó, bồ công anh có lẽ là loài phân bố rộng, ở hầu hết các tỉnh từ miền núi đến đồng bằng.
Cây cũng gặp ở nhiều nước Việt Nam, Ấn Độ, đông Siberi, Đài Loan, miền nam Trung Quốc, Lào, Nhật Bản, Philippin và Inđônêxia.
Đặc điểm thực vật Bồ công anh là cây thân thảo, thân nhẵn, thẳng, chiều cao cây từ 0,6 – 1,0 m có khi đến 2,0 m và ít phân cành. Lá mọc so le, lá ở dưới thuôn dài, xẻ thuỳ không đều, hẹp và sâu, thùy nhỏ và thùy lớn xen kẽ nhau, mép có răng cưa, gốc tù, đầu nhọn, các lá ở giữa và ở trên ngắn và hẹp hơn, có ít răng hoặc hoàn toàn nguyên. Gần như không có cuống lá. Cụm hoa đầu hợp thành chùy dài 20 – 40 cm, mọc ở thân và kẽ lá, phân nhánh nhiều, tổng bao hình trụ, mỗi đầu có 8 – 10 hoa màu vàng hoặc màu vàng nhạt, tràng hoa có lưỡi dài, ống mảnh, nhị 5, bao phấn có đỉnh rất tròn, vòi nhụy có gai. Mùa hoa tháng 6 – 7. Quả bế, mùa quả tháng 8 – 9. Hạt màu đen, có mào lông trắng nhạt, 2 cạnh có cánh, 2 cạnh khác giảm thành một đường lồi.
Điều kiện sinh thái Bồ công anh là cây ưa ẩm và ưa sáng thường mọc trên những nơi đất tương đối màu mỡ, nhất là các bãi bồi ven sông, vườn bỏ hoang hoặc nương rãy, ven đường, các sườn đồi nhiều nắng. Cây sinh trưởng mạnh trong mùa hè, ra hoa quả vào mùa thu và sau đó tàn lụi. Nhiệt độ thích hợp 20 – 350C, độ ẩm 85 – 90%.
Giá trị làm thuốc – Thuốc tiêu độc chữa sưng vú, mụn nhọt: Bồ công anh (12g), ké đầu ngựa (12g), vòi voi (12g), liên kiều (12g), kim ngân hoa (10g), kinh giới (10g), hạ khô thảo (10g), cỏ mần trầu (10g). Tất cả phơi khô, thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml uống làm 2 lần trong ngày.
– Chữa mụn nhọt, làm nhọt chóng chín và vỡ mủ: Lá bồ công anh tươi phối hợp với lá phù dung, rễ vông vang hoặc rễ gai, giã đắp.
– Chữa đau dạ dày: Lá bồ công anh khô (20g), lá khôi (15g), lá khổ sâm (10g), nước 300ml. Đun sôi 15 phút chia làm 3 lần uống trong ngày. Uống tiếp tục trong vòng 10 ngày. Nghỉ 3 ngày rồi lại tiếp tục cho đến khi khỏi.
Bộ phần dùng làm thuốc và công dụng Bộ phận sử dụng: Cả cây Bồ công anh
Công dụng: Thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm. Bồ công anh thường được dùng điều trị tỳ vị có hỏa uất, sưng vú, áp xe, tràng nhạc, mụn nhọt, tắc tia sữa, viêm tuyến vú, nhiễm trùng đường tiết niệu, đau dạ dày.
Phần II: Kỹ thuật trồng trọt
Chọn vùng trồng Đất thịt, đất thịt nhẹ, đất cát pha, đất phù sa, đất ven sông, đất nương dãy…có độ pH 6,6 – 7,5. Độ cao không quá 1500m so với mực nước biển.
Giống và kỹ thuật nhân giống – Phương pháp nhân giống hữu tính (nhân giống bằng hạt) cho hệ số nhân giống cao nhất do đó trong thực tế người dân nên sử dụng phương pháp này.
– Lượng giống cần cho 1ha là: 125.000 cây/ha
– Kỹ thuật làm giống: Thu hoạch hạt vào tháng 8 – 9, thu lấy quả chín đem về phơi khô, sàng sẩy làm sạch hạt giống, loại bỏ tạp chất. Độ ẩm không quá 7% cho vào bảo quản túi nilon đến vụ xuân mang ra gieo. Tỷ lệ mọc mầm khá cao đạt 80 – 90 % nếu bảo quản tốt.
Bồ công anh nảy mầm khá nhanh nên thường gieo trực tiếp trên ruộng không qua vườn ươm nhưng khi có ít giống nên gieo qua vườn ươm để tiết kiệm giống, thời gian vườn ươm từ lúc hạt nảy mầm đến khi đưa ra trồng khoảng 20 – 25 ngày.
– Tiêu chuẩn cây giống Bồ công anh: Cây giống khoẻ mạnh, không bị sâu bệnh. Chiều cao cây 10 – 15 cm. Ra ngôi cây con khi cây có 4 – 6 lá thật.
Thời vụ trồng Thời vụ gieo trồng ở miền Bắc Việt Nam vào mùa xuân, từ tháng 3 – 4. Ở miền Nam vào mùa mưa từ tháng 4 – 5.
Kỹ thuật làm đất Đất được cày sâu 20 – 25 cm, để ải, bừa kỹ, làm nhỏ đất, nhặt sạch cỏ dại, chia luống 1,0 – 1,2 m bón toàn bộ phân lót, vét thành luống cao 15 – 20 cm, rộng 70 – 80 cm, rãnh rộng 30 – 40 cm, độ dài tuỳ thuộc địa hình. Có thể rạch thành hàng để gieo hoặc gieo vãi trên mặt luống sau đó tỉa định cây.
Mật độ, khoảng cách trồng Khoảng cách trồng: 20 x 20 cm
Mật độ cây/ha: 125.000 cây/ha
Nếu gieo trực tiếp trên ruộng, có thể rạch thành hàng để gieo hoặc gieo vãi trên mặt luống sau đó tỉa định cây.
Phân bón và kỹ thuật bón phân Lượng phân bón
Loại phânTổng lượng phân bón/ha (kg)
Tổng lượng phân bón/sào (360m2) (kg)Thời kỳ bón Bón lótBón thúc Phân chuồng8.000 – 10.000296 – 370100%_ NPK (15 – 13 – 13 )
1.0003720%80% Phương pháp bón
– Bón lót: 100% phân chuồng hoai mục, 200 kg NPK/ha tổng hợp
– Bón thúc: Tổng lượng phân NPK được chia làm 3 đợt bón
+ Lần 1: Bón khi cây bén rễ hồi xanh 15 – 20 ngày bón 100kg NPK/ha(3,7 kg/sào).
+ Lần 2: Sau khi trồng 1 – 1,5 tháng bón 500kg NPK/ha(18,5kg/sào)
+ Lần 3: Sau trồng 2 – 2,5 tháng bón 200kg NPK/ha(7,4 kg/sào).
Kỹ thuật chăm sóc Ruộng luôn được đảm bảo sạch cỏ dại, giữ ẩm thường xuyên và thoát nước tốt.
Phòng trừ sâu bệnh Cây bồ công anh ít bị bệnh và sâu hại. Đôi khi có thể xuất hiện sâu cuốn lá và sâu ăn lá. Nếu mật độ sâu ít, có thể bắt sâu bằng tay. Mật độ sâu cao có thể sử dụng các loại thuốc có hoạt chất Abamectin (ví dụ Catex 1.8EC, 3.6EC; Shepatin 50EC); chế phẩm Bt (là sản phẩm sinh học từ vi khuẩn Bacillus thuringiensis) (ví dụ V-BT 16000WP, Vbtusa (16000IU/mg) WP; Biocin 16WP; Comazol (16000 IU/mg)WP).
Chế độ luân canh Có thể luân canh với các cây thuốc trồng vụ đông như mã đề, ích mẫu.
Thu hoạch, chế biến và bảo quản Thu hoạch:
– Thời điểm thu hoạch: Trước khi cây nở hoa. Khi cây trồng được hơn 2 tháng tuổi, thu hoạch đợt 1 bằng cách cắt các lá ở dưới và để lại 3 – 4 lá ngọn ở phần trên, mang về cắt ngắn và phơi khô. Tiếp tục làm cỏ chăm sóc và bón phân để cây sinh trưởng và phát triển thu hoạch đợt 2. Thu hái vào khoảng tháng 5 – 7, lúc cây chưa ra hoa hoặc bắt đầu ra hoa.
Sơ chế:
Loại bỏ tạp chất và lá già, phơi hoặc sấy ở nhiệt độ 50oC cho đến khô. Màu cảm quan dược liệu có màu xanh, lá và cuộng thấy ròn là cho luôn vào túi polyetylen.
Bảo quản:
Dược liệu Bồ công anh được cho vào túi polyetylen, ngoài có bao tải, bảo quản trong kho thoáng mát, kê cách mặt đất 0,5 m. Để nơi khô mát tránh ánh sáng.
Tiêu chuẩn dược liệu Mô tả: Lá mỏng nhăn nheo nhiều hình dạng, mặt trên mầu nâu thẫm, mặt dưới mầu nâu nhạt, vị hơi đắng. Đoạn thân dài 3-5 cm, tròn, thẳng, lõi xốp, đường kính khoảng 0,2cm, mặt ngoài mầu nâu nhạt, lốm đốm, có mấu mang lá hoặc vết tích của cuống lá.
Theo quy định của Dược điển Việt Nam IV (2009), dược liệu bồ công anh phải có độ ẩm không quá 12,0 %; Tạp chất không quá 1,0 %; Tro toàn phần không quá 9,0 %; Kim loại nặng không quá 20ppm.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Giới Thiệu Kỹ Thuật Trồng, Chăm Sóc Cây Củ Mài (Hoài Sơn) Của Trang Trại Dược Liệu Lương Việt trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!