Cập nhật nội dung chi tiết về Đạm, Phân Đạm Được Đồng Hóa Như Thế Nào mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Bài 1: ĐẠM, PHÂN ĐẠM ĐƯỢC ĐỒNG HÓA NHƯ THẾ NÀO
Đạm là tên gọi chung cho các loại hợp chất có chứa yếu tố ni tơ. Ni tơ (ký hiệu N) là một trong những nguyên tố quan trọng được tìm thấy trong các cơ thể sống. Nguồn ni tơ luôn tồn tại trong khí quyển.
Ni tơ là một thành phần cốt yếu của các aminoacid và protein vì vậy không thể được cây trồng hấp thụ trực tiếp từ không khí, mặc dù nó chiếm tới 79%. Cây trồng chỉ có thể hấp thụ ni tơ dưới các dạng muối và được hình thành dưới các hình thức và phương pháp sau:
Sự cố định ni tơ theo phương thức sinh học:
Việc biến đổi ni tơ thành các hợp chất chủ yếu bằng sự kết hợp với carbon, hydro và ô xy trước khi nó có thể được hấp thụ bởi cây trồng. Điều này được coi như là sự cố định ni tơ. Những vi sinh vật có khả năng cố định ni tơ không khí có thể được phân thành 2 nhóm chính:
Những vi sinh vật cộng sinh.
Những vi sinh vật sống tự do.
Những vi sinh vật cộng sinh:
Một số thực vật có khả năng cố định ni tơ không khí thông qua một quá trình gọi là cố định ni tơ cộng sinh.
Vi khuẩn cộng sinh Rhizobium được tìm thấy trong sự cộng sinh với các nốt sần ở rễ cây họ đậu như cây đậu, đậu Hà Lan, đậu xanh và đậu phộng. Sự cộng tác giữa vi khuẩn Rhizobium với các cây họ đậu có bản chất cộng sinh.
Các nốt sần của rễ đóng vai trò là nơi cố định đạm. Những nốt sần rễ ấy chứa đựng một sắc tố gọi là leghaemoglobin. Nó có màu hồng nhạt giống như thể nó quan hệ rất gần gũi với haemoglobin ở người và động vật. Giống haemoglobin nó cũng kết hợp với oxy. Bằng sự kết hợp với oxy, leghaemoglobin bảo vệ enzym Nitrogenase, loại enzym chỉ thể hiện chức năng ở những điều kiện kỵ khí. Chỉ có enzym Nitrogenase là có thể tách được phân tử ni tơ cho quá trình cố định đạm.
Sự hình thành nốt sần rễ:
Nốt sần rễ là nơi cố định đạm.
Khi lông hút ở rễ cây họ đậu tiếp xúc với vi khuẩn Rhizobium, nó cong lên hoặc biến dạng. vi khuẩn xâm nhập vào mô rễ. Một số vi khuẩn trong mô rễ lớn lên để trở thành những cấu trúc bao quanh dạng màng gọi là những bacteroid. Sự phân chia tế bào khi được thực hiện, ở những mô bị tấn công tạo thuận lợi cho sự hình thành nốt sần. Vì vậy nốt sần tạo lập hoàn thiện theo hướng kết nối mạch với cây chủ để chuyển đổi dưỡng chất.
Sự cố định ni tơ
Ni tơ không khí bị khử bởi sự kết hợp của các nguyên tử hydro. ni tơ bị phá vỡ dẫn đến việc tạo thành amoniac. sự cố định ni tơ đòi hỏi 3 cấu thành sau: – Một chất khử mạnh; ATP và các enzym
Amonia, được tạo thành như là kết quả của sự cố định ni tơ, được sử dụng để tổng hợp các aminoacid, đơn vị tạo dựng nên protein.
Sự tổng hợp các aminoacid:
Các aminoacid được tổng hợp bằng hai quá trình chính: – Sự khử amin hóa ( khử tạo ra nhóm amin ): Trong quá trình này amoniac phản ứng với acid α.ketoglutaric để tạo thành acid glutamic.
– Sự chuyển amin: Acid glutamic nguyên là một aminoacid mà từ nó 17 aminoacid khác được tạo thành thông qua quá trình chuyển amin.
Các vi sinh vật sống tự do:
Những vi sinh vật như Cyanobacteria ( vi khuẩn lam ) và vi khuẩn quang hợp cũng có thể cố định ni tơ. Một số vi khuẩn lam cũng hoạt động như những thể cộng sinh và tồn tại cộng hưởng cùng với địa y, những thể sống mang sắc tố anthoceros; trước loài dương xỉ nước- Azolla và các rễ của cây hạt trần.
Quá trình cố định ni tơ sinh học:
Qua quá trình cố định ni tơ, N không khí được cố định thành các hợp chất hữu cơ ( như aminoacid, protein, nucleic acid ) trong các cơ thể sống cũng như các dạng vô cơ như NH4+.
Trong cố định ni tơ, một lượng lớn năng lượng được sử dụng để tách 2 nguyên tử ni tơ của phân tử ni tơ. Năng lượng này được lấy từ các phân tử ATP của các cơ thể vi sinh. Nguồn ATP còn được lấy từ quá trình hô hấp và quang hợp.
Sự cố định ni tơ chỉ xảy ra trước sự có mặt của enzym Nitrogenase; chúng khử phân tử ni tơ ( dinitrogen ) thành amoniac.
Chuỗi các trường hợp xuất hiện trong quá trình cố định ni tơ được thể hiện như sau :
Thực vật thu nhận ni tơ từ đất dưới dạng những ion amonium (NH4+) hoặc ion nitrate (NO3–), Amoniac luôn là sản phẩm chính của cố định ni tơ sinh học. Chúng được biến đổi thành nitrate nhờ vào một số vi khuẩn đất (Nitrate luôn là nguồn ni tơ chính đối với thực vật ).
Sự amoni hóa:
Những phế tích chết của động, thực vật được phân hủy, thông qua hoạt động của vi sinh vật, tạo thành amoniac. Quá trình này được nhận biết như là sự amoni hóa.
Sự nitrate hóa:
Sự đồng hóa nitrate ở thực vật:
Sau khi nitrate được hấp thụ bởi thực vật, chúng bị khử thành amoniac, với sự giúp đỡ của enzym nitrate reductase và nitrite reductase.
Enzym nitrate reductase:
Khử nitrate thành nitrite. Phản ứng này có thể xảy ra ở bất cứ bộ phận nào của cây. Nitrate reductase là một flavoprotein và có chứa molybdenum.
Enzym nitrite reductase:
Khử ion nitrite thành ion amonium. Nitrite reductase không yêu cầu molybdenum mà có thể chứa đựng đồng và sắt. Bởi vì ferredoxin là nguồn điện tử trực tiếp. Phản ứng này xảy ra ở lá cây và những ion nitrite, được hình thành ở bất cứ đâu, cũng được vận chuyển về lá để khử.
Sưu tầm & biên dịch: KS. Đinh Văn Vụ
Bón Đạm Ure Cho Rau Như Thế Nào Cho An Toàn Và Hiệu Quả?
Phân đạm thực chất là loại phân bón có chứa Nitơ. Bón phân đạm để cung cấp Nitơ cho cây trồng.
Trong các loại phân bón thì phân đạm có tác động lớn nhất đến sự tăng trưởng của cây trồng.
Dinh dưỡng Nitơ giúp lá cây trở nên xanh đậm, phát triển và tươi tắn, cây thiếu đạm sẽ bị vàng lá, còi cọc, không phát triển.
Vào khoảng sáng sớm trước 10h hoặc chiều tối
Trong quá trình sinh trưởrng, cây trồng cần phân đạm vào giai đoạn ra lá, giai đoạn sinh trưởng của cây.
Vì thế đạm là loại phân để bón thúc, không nên dùng đạm bón chính.
Theo một chu trình cây trồng thì chúng ta sẽ bón phân đạm cho cây vào các giai đoạn sau:
Khi cây mới trồng đã ra lá thật, bón vừa phải không để cháy lá
Khi cây đang sinh trưởng sẽ tập trung bón thành nhiều lần
Giai đoạn khi cây ra hoa, quả sẽ bón ít lại, nhưng vẫn phải bón
Chọn phân đạm dễ hòa tan, sau đó tiến hành đào rãnh hay tạo lỗ xung quanh các gốc đây.
Rắc phân quanh gốc cây và tưới nước đều.
Phân đạm nguyên hạt sẽ nhờ nước làm tan và hòa vào trong đất, giúp rể cây hấp thụ.
Cách bón phân này phù hợp với những cây ăn trái, thân gỗ hơn, và sẽ đỡ tốn công hơn.
Về liều lượng mình không đề cập đến vì mỗi loại cây sẽ có những yêu cầu riêng. Khi bón các bạn có thể tham khảo trên mạng, các tài liệu để biết chính xác hơn.
3.2. Tưới phân đạm hòa tan với nước
Cây hấp thụ đạm tốt nhất khi đạm được hòa tan với nước.
Tưới phân đạm tức là bạn dùng đạm nguyên hạt và hòa tan với nước theo tỉ lệ phù hợp.
Ngâm khoảng 5 phút, tỷ lệ 1 kg phân pha 200 lít nước. Cách bón này phù hợp với cây trồng ăn lá, các loại rau ngắn ngày.
Điều quan trọng là phải tưới cây thật kỹ bằng nước thường trước khi bón phân lỏng để tránh làm cháy rễ nếu đất khô.
Ngoài ra, hãy cẩn thận rằng phân bón thực sự được pha loãng dựa trên hướng dẫn, nếu không bạn sẽ làm cháy lá.
Nếu bạn có một hệ thống tưới nước phun sương hoặc nhỏ giọt, bạn có thể hòa tan cho phân chạy theo hệ thống sẽ tiện lợi hơn.
Trong thực tế, bón nhiều phân bón không phải là tốt hơn. Cây chỉ sử dụng các chất dinh dưỡng mà chúng cần.
Bón đạm nhiều hơn là không cần thiết có thể dẫn đến tăng trưởng bất thường và gây tồn dư trong cây.
Phân đạm cũng có một nhược điểm là dễ bay hơi. Nên khi bón các bạn hãy chú ý bón vùi sâu hạt đạm, bón trước khi trời mưa để tránh lãng phí.
Sau khi tưới đạm từ 15 – 20 ngày ta mới thu hoạch rau để đảm bảo an toàn nhất cho sức khỏe.
Phân Đạm Ure Xanh 1Kg Hàm Lượng Đạm N46
Phân Đạm Xanh
Khối lượng: Túi 1kg
Đạm hạt xanh là một loại ure có tỷ lệ 46% N, giống như các loại ure khác. Nhưng khi sử dụng cho sản xuất thì mang lại hiệu quả cao hơn đạm ure thông thường…
Được áo hoạt chất N-KEEP chống thất thoát đạm tối đa
Được bổ sung vi lượng Chelate giúp cây hấp thụ dinh dưỡng nhanh hơn.
Cây phát triển nhanh, màu xanh bền, cho năng suất cao.
Tiết kiệm 30% lượng bón, giảm chi phí và tăng lợi nhuận
Bón ít, năng suất cao, tăng lợi nhuận
Kích thích bộ rễ phát triển sâu và mạnh, tăng độ nảy mầm khi gieo hạt, tăng khả năng quang hợp của cây, giúp cây đẻ nhánh khỏe và xanh lá bền hơn các loại đạm thông thường.
Dùng cho nhiều loại cây: Cây cảnh, cây ăn trái, rau màu, cây công nghiệp
Mọi thông tin chi tiết xin vui lòng liên hệ:
CỬA HÀNG CÂY CẢNH S-XANH
Địa chỉ: Trường Chinh, Phường 3, TP. Tây Ninh
Hotline: 0377818725 – 0866995446
Email: caycanhsxanh@gmail.com
Fanpage: https://www.facebook.com/caycanhsxanh/
Website: https://caycanhsxanh.com
�� Youtube: https://www.youtube.com/channel/UCPHqPdOo-n-TouAEiTCaPKw
0.0
Lưu Ý Cách Bón Phân Đạm
Đạm, Lân, Kali là những nguyên tố đa lượng rất cần thiết cho cây trồng sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên nếu bón đúng cách sẽ làm tăng tính hiệu quả của phân bón là mang lại lợi cho cây trồng. Nhưng ngược lại không chỉ làm hao tổn chi phí mà còn ảnh hưởng xấu đến cây trồng.
GFC cung cấp các thông tin cần lưu ý khi bón đạm, lân, kali cho cây trồng trong bài viết sau. Bà con theo dõi để nắm được cách bón loại nào vào giai đoạn nào, cho loại đất nào, cây trồng nào với liều lượng ít hay nhiều.
Đối với cây trồng Đạm đóng vai trò hình thành protein , là thành phân cơ bản của sự sống. Đạm tham gia vào cấu tạo của axitnueic, có vai trò quan trọng trong việc trao đổi chất.
Phân đạm là thức ăn chính của cây, giúp cho chồi, cành lá phát triển; lá có kích thước to sẽ tăng khả năng quang hợp từ đó làm tăng năng suất cây trồng.
– Dễ sử dụng, không làm thay đổi độ pH của đất
– Dễ bay hơi, nên thất thoát từ 30 – 40% so với lượng cung cấp cho cây trồng
– Cần thiết cho cây trồng lấy lá
– Dùng phân đạm với liều lượng vừa đủ, tránh hiện tượng dư thừa, chia ra bón làm nhiều lần
– Không nên bón phơi trên bề mặt ruộng, vườn, khi bón thao tác cần cẩn thận
– Đạm được dùng để bón thúc là chính, tuy nhiên nếu đất xấu cần bón thêm đạm để cho cây non có điều kiện hấp thụ dễ dàng hơn
– Đối với cây có nhu cầu cần nhiều đạm, nên chia ra bón nhiều lần, nhất là đối với chân đất chua, độ mùn trong đất kém, dung tích hấp thụ thấp
– Bón theo đúng nhu cầu của cây trồng và đất đai:
+ Đối với cây trồng cạn (ngô, mía, bông …): bón đạm nitrat
+ Đối với cây lúa nước: bón đạm Clorua hoặc SA
+ Cây họ đậu: bón 20 – 30 kg N/ha (tốt nhất nên trộn với phân chuồng đạ hoai mục)
+ Đất sình, trũng, ruộng bùn sâu cần cân nhắc kỹ khi bón đạm
+ Ruộng chứa nhiều chất hữu cơ không nên bón nhiều đạm. Nếu bón nhiều đạm cây sẽ bị lốp đỗ, lúa bị đạo ôn
– Kết hợp bón với phân kiềm, tro hoặc vôi kẻo chua đất, hiệu lực kém
– Không bón khi trời mưa giông hay nắng gắt, kết hợp làm sạch cỏ vườn, xới tôi đất xốp.
– Bảo quản nơi khoa ráo, thoáng mát, không tiếp xúc trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời.
– Không đổ phân đạm ra nền, không tựa vào tường, phải để vào bao giấy tốt hoặc bao nilong và kê cao trên mặt đất.
– Sau khi bón xong còn dư phân nên để phân vào bao nilong, cột kín để tránh phân tiếp xúc với môi trường ẩm bên ngoài
– Không để chung phân đạm với các loại phân khác
Lân rất cần cho giai đoạn phát triển của rễ và sự phát triển mầm cây ở giai đoạn cây non
– Phân lân được sản xuất theo cách dùng axit sunphuric để khử quặng thành lân supe, nên loại phân lân này thường có độ pH từ 4 -4.5 (gây chua đất)
– Phân lân nung chảy có tính kiềm (PH = 8 – 8,5) vì quặng được nung chảy ở nhiệt độ cao thành lân. Do đó cần kiểm tra để biết đất ruộng là chua, trung tính hay kiềm mà chọn lân thích hợp.
– Phân lân chậm phân giải cho nên hiệu lực tồn dư của phân vụ trước có thể kéo dài sau 2 – 3 vụ
– Khả năng phân giải chậm, ít bụ rửa trôi và mất đi, khuếch tán chậm và không xa
+ Đất chua nên bón lân nung chảy,
+ Đất hơi chua hoặc trung tính nên bón supe lân.
+ Đất cát nghèo, đất bạc mùa, đất phù sa nặng chua, đất phèn, đất đồi laterit chua, đất phù sa trũng và lầy nên dùng lân nung chảy
+ Khi bón phân lân phải giữ độ ẩm cho đất, không để đất khô.
+ Cây cần nhu cầu lân cao: cây họ đậu, mía, cói, dâu tằm, su hào, bắp cải, súp lơ…cần bón mỗi vụ
+ Trộn với đất để phân gần rễ sẽ tốt hơn.
+ Lưu ý không trộn phân lân nung chảy với phân chuồng hay phân hữu cơ khác để tránh mất lương đạm
+ Bón lót là chủ yếu để cung cấp kịp thời cho cây trồng phát triển bộ rễ
+ Để tăng hiệu quả supe lân nên ủ cùng phân chuồng sẽ làm tăng hiệu suất của lân, hạn chế sự cố định của đất.
– Là phân tan nhanh, dễ gây cháy lá, héo rễ non và long hút của cây khi tiếp xúc trực tiếp
– Dễ bay hơi và bị rửa trôi, tồn tại lâu trong nước ruộng sẽ gây ra độc tố
– Đất nặng – đất sét, đất thịt nặng và đất thịt trung bình giàu kali
– Đất bạc màu, đất xám đất thịt nhẹ mới nghèo kali không đủ cung cấp cho cây
– Các loại cây cần nhiêu kali nhất là cây lấy Củ (khoai, sắn), cây lấy đường (mía), cây lấy sợi (bông, đay gai, dứa sợi, dâu tằm), cây ăn qủa (dừa, chuối).
Tùy thuộc vào nhu cầu của cây trồng, loại đất, giai đoạn sinh trưởng và phát triển mà chọn liều lượng bón cho phù hợp.
+ Thời kỳ sinh trưởng cây cần ít, thời phát triển sinh thực cần nhiều đặc biệt là cây lấy củ và quả.
Nhưng lưu ý cần dùng phân K cho cả 2 giai đoạn trên
+ Đất thịt nhẹ, đất cát pha, đất phù sa, đất đỏ vàng: cần bón đủ hoặc cao hơn nhu cầu K mà cây trồng cần
+ Đất cày vùi rơm rạ, bón nhiều phân chuồng hoặc đất tỷ lệ sét cao, đất mặn, đất lầy, đất than bùn, đất mùn trên núi cao: thì nhu cầu K ít
+ Đối với đất trung thính nên kịp thời bón thêm vôi khi bón Kali
+ Nếu 2 vụ gieo trồng kề liền nhau, đất không .được nghỉ nên chú ý bón lót và bón thúc vào trước lúc ra hoa. Nếu đất được nghỉ lâu chi cần chú ý bón thúc theo kỳ sau
Năng suất càng cao thì nhu cầu cây cần Kali càng nhiều
Các loại cây có phản ứng tích cực với phân kali là: chè, mía, thuốc lá, dừa, chuối, khoai, sắn, bông, đay, v.v..
+ Với cây ngắn ngày có thể bón lót và bón thúc
+ Với cây dài ngày nên bón kali lúc cày bừa, hàng năm nên bón bổ sung vào đầu vụ đông.
+ Đối với lúa, bón kali vào trước khi lúa làm đồng là có hiệu quả nhất.
+ Cây hút rất nhiều kali, số lượng hút hàng năm (hay vụ) 200kg K 2 O / ha: cây dứa, cây chuối, cây dừa, cây cam, cây chanh, cọ dầu, cọ lấy lá, cây mía, sắn, khoai lang, bông, đay, gai, cói, thuốc lá, cỏ dùng cho gia súc, cây khoai tây.
+ Cây hút kali vào loại trung bình 100 – 200 kg K 2 O/ha/năm: cây lúa, cây ngô, kê, cây lạc, cây đậu, đỗ, cây cà phê, cao su, điều, ca cao.
– Cây hút kali thấp: Các loại rau ăn lá, đậu, rau, chè.
+ Nên bón nhiều lần để hạn chế rửa trôi, không nên bón lượng lượng lớn 1 lúc
+ Không nên bón phân phơi lên mặt ruộng, vườn; nên trộn vào đất, bón sâu, vùi kỹ tránh rừa trôi
+ Khi bón tránh thời điểm lá còn ướt làm phân dính vào lá. Một số trường hợp lại có thể bón thúc bằng cách phun dung dịch lên lá vào các thời gian cây kết hoa, làm củ, tạo sợi, nhưng cần chú ý về nồng độ và không tiến hành vào những thời điểm khô, nóng
+ Dùng phân K để bón lót hoặc bón thúc, đặc biệt cần thiết cho đất vụ trước trồng cây lấy củ
Với các thông tin trên hy vọng bà con đã nắm được các kỹ thuật bón từng loại phân đạm, lân, kali như thế nào là phù hợp với đất đai và nhu cầu cây trồng đang được canh tác.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Đạm, Phân Đạm Được Đồng Hóa Như Thế Nào trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!