Cập nhật nội dung chi tiết về Bài 5: Bo (B) Và Vai Trò Đối Với Cây Trồng (Tiếp Theo) mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
5. Mối tương hỗ giữa B và các nguyên tố dinh dưỡng khác:
– Khi lạm dụng Bo bón với lượng cao, dẫn đến sự giảm hấp thu của Zn, Fe, Mn nhưng tăng hấp thu Cu. Lượng Ca và Mg cao có thể làm giảm sự hấp thu Bo.
+ Thiếu Zn tăng cường tích lũy Bo. Zn có tác dụng giảm tích lũy và độc tính của B trên cây trồng.
+ Thiếu Bo làm giảm khả năng hút lân của các cây họ đậu và giảm sự hấp thu của Mn và Zn trên cây bông.
+ Bo độc hại đối với ngô khi trồng trong điều kiện thiếu lân, và việc bón lân có tác dụng làm giảm bớt độc tính của Bo.
Biện pháp khắc phục hiện tượng ngộ độc Bo: Bón vôi, bón thêm Silic cũng có tác dụng ngăn cản sự cản sự hấp thu Bo của cây từ đó làm giảm tình trạng ngộ độc ở cây.
Biểu hiện thiếu Bo ở một số cây trồng
5.1. Liều lượng Bo đối với quá trình ra hoa, đậu quả
– Có thể khắc phục hiện tượng thiếu hụt Bo bằng cách: phun qua lá, tưới gốc hoặc bón gốc trộn với phân bón.
Lưu ý: Bón lót bằng cách rải đều hay bón thúc vào đất có hiệu quả hơn so với phun lên lá đối với cây hằng năm. Còn đối với cây ăn quả, phun phân Bo qua lá rất hiệu quả, có thể phun vào các thời điểm: Chồi đang ngủ, bắt đầu nảy chồi mới hoặc khi lá đang phát triển đầy đủ.
– Đối với các cây họ đậu và cây lấy củ cần 2 – 4 kg B/ha, trong khi đó các cây trồng khác cần lượng B tối đa thấp hơn.
+ Lượng Bo cân đối đối với cây họ đậu là: 2kg/ha.
+ Đối với ngô: 4,7kg/ha.
+ Đối với đậu tương: 3,4 kg/ha.
Lưu ý:
+ Lượng Bo gây ngộ độc cho lúa 4,4 kg Bo/ha, cây đậu 8,7 kg Bo/ha, đối với ngô là 6,8 kg Bo/ha và 7,4 kg Bo/ha cho lúa mỳ.
– Bón Bo vào thời kỳ 1 tuần trước khi ra hoa và sau khi đậu quả giúp chuỗi hoa kéo dài, làm chồi hoa lớn, khả năng đậu trái được tốt, sau khi đậu quả trái lớn nhanh, tránh hiện tượng rụng trái,rụng hoa, thối trái, thối hạt,…
6. Giới thiệu về sản phẩm
Sản phẩm phân bón Miền Nam có bổ sung Boron
6.1 Borate Canxi 9% Boron
Tên hóa học: Natri Borat Canxi
Công thức: NaCaB5O9.8H2O
Hàm lượng dinh dưỡng: B2O3: 29.0 ± 0.5% (tương đương Boron: 9.0 ± 0.2%), Na2O: 6.9%, CaO: 12.1%, H2O: 2.5%
Màu sắc: Xám trắng, tan tốt trong nước
Quy cách đóng gói: 25kg/bao hoặc với lượng yêu cầu tối tiểu 1kg.
Địa điểm: Mua hóa chất Natri Borate Canxi 9% Boron
Ứng dụng: Borate Canxi 9% Boron là sản phẩm khoáng tự nhiên với 9% Boron được sử dụng trong ngành nông nghiệp (phân bón và điều hòa sinh trưởng thực vật).
– Cách sử dụng
– Có thể bón gốc, hoặc trộn với phân hóa học.
– Có thể phun lên lá.
– Phun vào thời kỳ khoảng 1 tuần trước khi ra hoa và sau khi đậu quả tăng khả năng ra hoa, hạn chế rụng bông tăng khả năng đậu quả. Không phun lúc hoa ra rộ.
+ Đối với cây ăn trái (xoài, cam, …) lượng bón: 50 – 60g/25 lít nước.
+ Đối với tiêu, cà phê: 500 – 550g/220 lít nước.
+ Đối với dưa leo, rau ăn lá, dưa hấu, cà chua: 350 – 400g/200 lít nước.
Các đọc giả có thể mua hóa chất nông nghiệp đặc biệt là sản phẩm Borate Canxi 9% ở các đơn vị kinh doanh, xuất nhập khẩu hóa chất.3
6.2. Giới thiệu về sản phẩm axit Boric 99,9% (H3BO3)
Dạng tinh thể màu trắng, sờ nhờn, vị nhạt, không gây xót, tan trong nước, etanol (cồn), glixerin.
Hàm lượng H3BO3 là 99,9% (tương đương B = 17,5 %; B2O3 = 34%)
Ứng dụng: Dùng trong nông nghiệp (phân bón vi lượng), dùng trong công nghiệp (khử trùng, chất bảo quản, thuốc trừ sâu bọ, kháng cháy,…)
Tên hóa học: Axit Boric
Công thức: H3BO3
Ngoại quan: Dạng bột màu trắng.
Quy cách đóng gói: 25kg/bao hoặc theo yêu cầu của khách hàng.
– Cách sử dụng
– Phân axit boric được sử dụng để phun lên lá với nồng độ 0,03-0,05%.
– Phân còn được dùng để xử lý hạt giống, bón cho những nơi đất có hàm lượng B dễ tiêu dưới 0,2mg/100g đất.
Axit boric bón thích hợp cho cây họ đậu, đay…
6.3. Giới thiệu về Borat Natri
Dạng tương tự như Natri Borat Canxi
+ Phân Borat natri (Na2B4O7.10H2O)
Hàm lượng B trong phân là 11,3%.
– Cách sử dụng
Phân này được dùng để phun lên lá, xử lý hạt giống. Borat natri còn được dùng để trộn với phân đa lượng với mục đích sản xuất ra phân hỗn hợp có chứa B.
+ Borat magie: Phân này chứa 1,4% B và 19% Mg.
Phân được dùng để bón vào đất với lượng 0,5-1,5kg/ha, hoặc phun lên lá với lượng 200mg/ha hoạt chất (0,1-0,3kg/ha).
Cây bị thiếu B sinh trưởng kém, lá nhỏ, có màu nhạt, cây đâm chồi nách nhiều, rễ phát triển kém, thân cây thường bị nứt nẻ.
Sưu tầm và biên soạn Ks Lê Minh Giang
Kẽm (Zn) Và Vai Trò Đối Với Cây Trồng (Tiếp Theo)
Mối quan hệ kẽm và các yếu tố khác (Tiếp theo)
Về vai trò trong dinh dưỡng cây trồng, kẽm ảnh hưởng đến sinh tổng hợp axit indol acetic; là thành phần thiết yếu của men metallo-enzimes carbonic, anhydrase, anxohol dehydrogenase. Kẽm còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình tổng hợp axit nucleic và protein. Đặc biệt, kẽm còn giúp cho việc tăng cường khả năng sử dụng đạm (N) và lân (P) trong cây.
Thiếu kẽm có thể làm giảm năng suất tới 50% mà không biểu hiện triệu chứng gì. Trong trường hợp cây thiếu kẽm nặng, triệu chứng thiếu hụt dinh dưỡng sẽ xuất hiện chủ yếu ở các lá trưởng thành hoàn toàn, thường là lá từ thứ hai và thứ ba từ trên xuống.
Nếu cây trồng không được cung cấp đủ kẽm sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển khiến năng suất và chất lượng cây trồng giảm. Tình trạng thiếu kẽm ở cây trồng được thể hiện ở những biểu hiện dễ nhận thấy như: thân cây phát triển còi cọc, cây thấp, mắc bệnh úa vàng, lá cây có hình dạng còi cọc khác thường.
Những biểu hiện này thay đổi tùy theo từng loại cây trồng và chỉ thể hiện rõ ở những cây trồng bị thiếu kẽm nghiêm trọng. Trong những trường hợp thiếu kẽm ở mức độ thấp, năng suất cây trồng có thể giảm đến 20% hoặc nhiều hơn mặc dù cây trồng không có những triệu chứng rõ ràng.
Ngô (bắp) là một trong những loại cây trồng bị ảnh hưởng nhiều nhất đối với tình trạng thiếu kẽm và có mức hấp thụ kẽm cao nhất trên mỗi ha đất trồng. Nhu cầu về ngô tăng cao để sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm tại các nước đang phát triển và ngoài ra còn sản xuất etanol tại các nước phát triển đang làm cho tình trạng thiếu kẽm ở loại cây trồng này trở thành một vấn đề nghiêm trọng cần ưu tiên giải quyết. Trên cây ngô nếu thiếu kẽm thì lá sẽ có từ một hoặc vài sọc vàng nhạt đến một dải các mô màu trắng hoặc vàng với các sọc đỏ tía giữa gân và mép lá, xảy ra chủ yếu ở phần dưới của lá.
Trên cây lúa, sau khi cấy 15 – 20 ngày, xuất hiện các đốm nhỏ rải rác màu vàng nhạt xuất hiện trên các lá già, sau đó phát triển rộng ra, hợp lại và trở thành màu xẫm, sau đó lá trở thành màu đỏ và bị khô đi trong vòng 1 tháng. Đối với nhóm cây có múi, trêm cam, chanh xuất hiện lá úa vàng không đều giữa các gân lá, các lá non trở nên ngắn và hẹp, sự hình thành nụ quả sẽ giảm mạnh, các loại cây có cành thì bị khô đầu cành và chết.
Hiện tượng biểu hiện thiếu kẽm ở cây trồng
3. Mức độ và nhu cầu kẽm của cây trồng
Mức độ mẫn cảm do thiếu kẽm của các cây trồng cũng thay đổi tuỳ theo nhóm cây:
– Nhóm cây mẫn cảm với thiếu kẽm như cam quýt, cây ăn quả lâu năm, nho, đậu côve, đậu nành, bắp, hành.
– Nhóm cây mẫn cảm trung bình với thiếu kẽm: bông vải, khoai tây, cà chua, cao lương, củ cải, lúa
– Nhóm cây ít mẫn cảm với thiếu kẽm: các loại cây ngũ cốc hạt nhỏ, cà rốt, măng tây, bạc hà lấy tinh dầu.
Để khắc phục tình trạng thiếu kẽm trên cây trồng, người ta bổ sung kẽm trong các loại phân bón lá, thường dùng là Sulphát kẽm ZnSO4 với liều lượng sử dụng từ 15 – 250 g Zn nguyên chất /ha. Ta pha với khoảng 200 – 300 lít nước và phun cho 1 ha. Phun vừa đủ ướt lá, nên pha thêm chất bám dính để tăng hiệu quả sử dụng phân bón lá. Ngoài ZnSO4, có thể phun loại kẽm đã được chelat hoá như: NaZn EDTA tuy có hiệu quả cao hơn nhưng giá thành khá cao. Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại phân bón lá với thành phần dinh dưỡng khác nhau, trong đó có bổ sung thêm nhiều loại nguyên tố vi lượng khác nhau. Do đó khi người dân sử dụng cần xem kỹ thành phần dinh dưỡng ghi trên nhãn chai cũng như tính năng tác dụng của loại phân đó. Như vậy sử dụng cho cây trồng mới hiệu quả.
Cây hút kẽm ở dạng Ion hòa tan trong nước. Hàm lượng Zn trong cây thay đổi từ 15-22 mg/kg chất khô. Nhiều cây trồng thể hiện sự cần thiết phải bón kẽm. Các loại cây thể hiện nhu cầu bón kẽm nhất, đó là lúa, ngô, cây ăn quả như cam quýt bưởi chanh, đào, lê, táo. Trong các cây họ đậu thì các cây đậu ăn quả non như đậu cô ve, cô bơ, đậu đũa thường thể hiện sự cần thiết phải bón kẽm.
Dự trữ kẽm trong lớp đất mặt khoảng 120-170kg/ha/ Lượng kẽm dễ tiêu thay đổi theo pH, hàm lượng lân, chất hữu cơ và sét. Kẽm hòa tan nhiều khi pH quá chua hoặc quá kiềm. Trong khoảng pH 6-8, kẽm thường khó hòa tan.
Muối kẽm (Zn) dạng tinh thể và chelate
4. Các dạng muối có chứa thành phần kẽm (Zn):
Kẽm sunfat (ZnSO4.H2O)
Kẽm sunfat mono hydrat
Hàm lượng: Zn: 35 %; S: 17 %
Dạng bột màu trắng
Kẽm sunfat hydroxit (ZnSO4.4Zn(OH)2)
Kẽm clorua (ZnCl2)
Kẽm nung chảy với silicat
Kẽm oxit (ZnO):
Kẽm cacbonat (ZnCO3): Hàm lượng Zn: 52%. Hòa tan tốt trong axit, kiềm và dung dịch muối amoni, không tan trong nước
Kẽm sunfit (ZnS): Hàm lượng Zn: 67%; S: 32%
9 . Kẽm phôtphat (Zn3(PO4)2)
10.Phân Kẽm Chelate (nEDTA-ZN-15)
Phân Kẽm Chelate (nEDTA-ZN-9)
Bột kim loại Kẽm nano
Hình thức sản phẩm: dạng bột màu xám
Sưu tầm và biên soạn Ks Lê Minh Giang
Silic Và Vai Trò Dinh Dưỡng Với Với Cây Trồng (Tiếp Theo)
2.4. Vai trò của Si đối với đời sống của cây (tiếp theo)
Cây trồng đáp ứng với Si quan trọng nhất là lúa, có mối tương quan chặt giữa hàm lượng Si trong rơm rạ với năng suất lúa (Park, 1979 – trích dẫn bởi Mengel và Kirkby, 1987), hiệu lực của Si đối với bội thu năng suất hạt lúa rất rõ (Nagabovanalli và công sự, 2002). Hơn nữa, Si cũng có tác dụng tốt lên các yếu tố cấu thành năng suất như số bông, số hạt/bông và % hạt chắc. Silic đặc biệt kích thích sự tái tạo các cơ quan của cây lúa (Mengel và Kirkby, 1987).
Có thể kết luận: mặc dù, Si dường như không phải là chất dinh dưỡng thiết yếu cho sự sinh trưởng thực vật của phần lớn cây trồng nhưng Si rất cần thiết đối với sự phát triển khỏe mạnh của nhiều loại, đặc biệt là đối với các loại cây có hàm lượng Si trong cây cao như: lúa, ngô và mía.
Si có ảnh hưởng tốt lên sự sinh trưởng và năng suất của cây nhờ vào tác dụng làm giảm sự thoát hơi nước quá mức, tăng sức chống chịu của cây đối với nấm, sâu bệnh và giảm đổ ngã. Si đóng vai trò như một thành phần thuộc về cấu trúc ngăn chặn sự thoát hơi nước quá mức (Raven, 1983). Trong tế bào được cung cấp đầy đủ Si, sự hao hụt nước canh tác giảm đi nhờ vào sự tích lũy silica trong biểu bì (bảng 1). Tốc độ thoát hơi nước nói chung chịu ảnh hưởng bởi hàm lượng silica gel liên kết với cellulose trong vách tế bào biểu bì. Lớp silica gel dày hơn giúp hạn chế sự mất nước, trong khi vách tế bào biểu bì ít silica gel sẽ cho nước thoát ra nhanh hơn. Đối với lúa và lúa mì với mức Si được cung cấp cao hơn thì các hệ số thoát hơi nước thấp hơn. Cây thiếu Si dễ bị héo, đặc biệt trong điều kiện độ ẩm thấp, điều này giúp giải thích cho sự gia tăng tích lũy Mn và các chất dinh dưỡng khoáng khác trong các bộ phận trên không của cây thiếu Si.
Sức chịu đựng tốt hơn của cây đối với sự xâm nhập của nấm bệnh có thể cũng nhờ vào sự tích lũy Si trong lớp tế bào biểu bì (Miyake và Takahashi, 1978). Kết quả nghiên cứu trên nhiều loại cây trồng chứng tỏ Si có ảnh hưởng tốt đến khả năng chống chịu của cây nhờ vào hàm lượng Si trong cây cao giúp bảo vệ cây trước sự tấn công của sâu bệnh (Datnoff và cộng sự, 1991; Võ Minh Kha và Bùi Đình dinh, 1996; Dobermann và Fairhurst, 2000; matichenkov và Calvert, 2002). Đặc biệt đối với cây lúa và ngủ cốc, Si giúp lá mọc thẳng đứng hơn, giảm đổ ngã do mưa gió, giúp cho việc sử dụng ánh sáng được hiệu quả và tăng hiệu lực của phân N (Suichi Yosida, 1985; Mengel và Kirkby, 1987; Ho Chong Wah, 1996). Si có thể làm ảnh hưởng của Mn, Fe do các nguyên nhân sau:
– Sự phân phối Mn trong lá hợp lý hơn: dưới ảnh hưởng của Si, Mn được di chuyển dễ dàng từ các mạch dẫn truyền đến các bộ phân bên trên vì vậy ngăn chặn sự tích lũy Mn tại chỗ (Horst và Marschner, 1978).
– Si khống chế sự thu hút Fe và Mn vào cây: Trong đất lúa nước thường chứa Fe và Mn dạng khử với lượng lớn, sự hiện diện của Si trong cây với hàm lượng cao dường như làm tăng tỷ lệ những khoảng trống chứa khí trong chồi và rễ có thể giúp oxy được vận chuyển vào rễ, vì vậy năng lực oxy hóa của rễ được tăng cường (Suichi Yosida, 1985). Dạng Fe2+ và Mn2+ được oxy hóa bởi rễ lúa chuyển thành dạng không tan và kết tủa trên bề mặt rễ. Tuy nhiên, Fe và Mn dạng oxy hóa bám trên bề mặt rễ có thể gây cản trở sự thu hút nước và dinh dưỡng của cây. Ảnh hưởng làm giảm độ độc Mn và Fe phụ thuộc vào Si trong cây hơn là nồng độ Si của dung dịch bên ngoài. Trong cây bị thiếu Si, Fe và Mn được chuyển đến những bộ phân trên.
Kết quả thí nghiệm của Võ Thị Gương và cộng sự (1998) cho thấy bón Ca-silicate với liều lượng 250 và 500kg SiO2/ha/vụ cho lúa trên đất phù sa (Tiền Giang) làm giảm rõ hàm lượng Mn trong cây lúa giai đoạn làm đòng.
Tác dụng tương hỗ giữa Si với P giúp cây hấp thu chất dinh dưỡng tốt hơn, cây tăng trưởng nhanh có thể làm pha loãng nồng độ Fe trong cây (Trần Thị Tường Linh và cộng sự 2005 b), tăng tỷ lệ P/Fe trong cây vì vậy tăng khả năng chịu phèn của cây lúa (Nguyễn Minh Hạnh, 1991). Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đức Thuận (2002) cho thấy: bón phân lânnung chảy (thermo phosphate – TP, chứa 24% SiO2) cho lúa trồng trên đất phèn nặng mới khai hoang làm tăng tỷ lệ P/Fe trong cây cao hơn so với bón phân supe lân (SSP) hoặc triple super phosphate (TSP).
Si cũng tăng cường sự thu hút lân của cây nhờ vào tác dụng làm giảm khả năng cố định lân của đất, cải thiện tình trạng lân dễ tiêu trong đất (Mengel và Kirkby, 1987; Nguyễn Tử Siêm và Trần Khải, 1996; Võ Minh Kha và Bùi Đình Dinh, 1996; Fiantis Dian và cộng sự, 2002; Trần Thị Tường Linh và cộng sự, 2005 a).
Cơ chế của hiện tượng này là do các anion silicate được bón vào có khả năng thay thế các anion H2PO4 – trên các vị trí hấp phụ của õit Fe, Al (Mengel và Kirkby, 1987; Sanyal và De Datta, 1991; Samuel và cộng sự, 1993; Borggaard, 1990). Tương tự anion phóphate, các anion của ãit silic có thể tham gia vào các phản ứng trao đổi ligand với các nhóm hydroxyl (OH) trên bề mặt khoáng (phương trình 1); hoặc kết hợp với các õit sắt, nhôm mang điện tích dương bằng lực hút tỉnh điện (hình 1).
H+
H
H+ H+
H H
Hình 1. Sơ đồ mô tả sự hấp phụ anion (phosphate hoặc silicate) do lực hút tĩnh điện với nhóm OH2 +
Theo Trần Công Tấu và cộng sự (1986), axit silic vô định hình có khả năng hấp phụ cation với một lượng khá cao (34meq/100g ở pH 7).
Lê Văn Căn (1978) cho rằng: nguồn gốc của những biện pháp bón silicate, hoặc bón những loại phân lân nung chảy là do trong đất muối silicate có khả năng chuyển một số loại phosphate thành dạng dễ tiêu hơn, ví dụ:
Việc đất rạ vụ Đông Xuân để gieo sạ lúa Hè Thu, cơ chế chủ yếu là tạo phức của SiO2 với Al3+ và Fe3+, là một biện pháp có thể hạn chế độc tố do phèn gây ra (Đỗ Anh, Bùi Đình Dinh, 1992). Tuy nhiên, biện pháp này có hạn chế là gây khói bụi làm ô nhiễm môi trường và lãng phí chất hữu cơ do đốt rơm rạ.
2.5. Mối quan hệ giữa Si và P
Về phương diện hóa học, acid orthosilic (axit silic) có một số tính chất tương tự với acid orthophosphoric (ví dụ, Si và P phản ứng với ammonium molipdate đều tạo phức màu vàng). Nhu cầu P của cây trong nhiều trường hợp có thể phần nào được đáp ứng bằng Si, nhưng vấn đề này sau đó đã được biết rõ là do khả năng cạnh tranh hấp phụ của ion axit silic với ion phosphate trong đất. Kết quả nghiên cứu của Trần Thị Tường Linh và cộng sự (2005b) cho thấy mối quan hệ tương hỗ giữa Si và P trong cây có tác dụng tích cực lên sự hấp thu và chuyển hóa các chất dinh dưỡng P, Si và N của cây lúa, làm giàu hàm lượng sắt, nhôm vì vậy làm tăng tỷ lệ P/Fe và P/Al trong cây. Bón kết hợp P (dạng TSP) với Si (dạng Na2SiO3 hoặc Na2SiF6) có ảnh hưởng tốt lên sự sinh trưởng của cây lúa trồng trên đất phèn trong nhà lưới, làm tăng trọng lượng sinh khối, số nhánh/cây và chiều cao cây so với cây lúa không được bón P và Si hoặc chỉ được bón riêng rẽ P hay Si.
So sánh hiệu quả sử dụng silic trên cây lúa
3- TRIỆU CHỨNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ THIẾU HỤT Si
3.1.Triệu chứng và ảnh hưởng của sự thiếu Si
Khi thiếu Si (bảng 2) cây lúa trở nên mềm và rũ xuống làm tăng sự che rợp nhau của quần thể, hoạt động quang hợp bị hạn chế, thiếu Si nghiêm trọng làm giảm số bông/m2 , số hạt chắc/bông dẫn đến sụt giảm năng suất. Cây bị thiếu Si dễ bị nhiễm các bệnh do nấm Pyricularia oryzae, Helminthosporium oryzae.
Các loại cây tích lũy nhiều Si thường biểu hiện triệu chứng thiếu Si. Triệu chứng thiếu Si diển hình ở lúa là lá già bị chết hoại và héo rũ đi cùng với mức độ thoát hơi nước cao. Trên cà chua, loại cây thuộc nhóm không tích lũy Si, có biểu hiện thiếu Si trong giai đoạn tiếp tục tạo quả, những lá mới ra bị dị tật, sự thụ phấn và tạo quả không thành công.
Bảng 2. Khoảng thích hợp và ngưỡng thiếu hụt Si đối với sinh trưởng của cây lúa
Giai đoạn sinh trưởng Bộ phận cây Khoảng thích hợp (%) Ngưỡng thiếu (%)
Đẻ nhánh – làm đòng Lá Y – <5
Thu hoạch Rơm 8-10 <5
Nguồn: Dobermann và Fairhurst, 2000
3.2. Mất Si từ đất do canh tác
Hàm lượng Si trong cây lúa dao động rất lớn (2-10%) nhưng thường là khoảng 5 – 6%. Để tạo ra 1 tấn hạt cây lúa lấy đi khoảng 50 – 110kg Si. Nếu giả định trung bình lượng Si để tạo 1 tấn hạt là 80kg Si, với năng suất lúa là 6 tấn/ha cây lúa hút khoảng 480kg Si/ha và 80% lượng này được tích lũy trong rơm rạ khi lúa chín. Nếu chỉ có hạt lúa được thu hoạch và rơm rạ được để lại trên ruộng thì lượng Si bị lấy đi khoảng 15kg Si/tấn hạt. Đốt rơm rạ không làm mất Si một cách đáng kể, trừ khi rơm rạ bị đốt theo từng đống lớn và Si bị rửa trôi từ tro do tưới hoặc mưa nhiều.
3.3. Nguyên nhân gây thiếu Si
Sự thiếu Si có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân như sau:
(i) khả năng cung cấp Si của đất thấp do đất bị phong hóa mạnh;
(ii) hàm lượng Si trong mẫu chất thấp;
(iii) việc lây rơm rạ ra khỏi ruộng lúa trong thời gian dài.
4- CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ Si
– Bổ sung Si cho đất từ nguồn Si tự nhiên: Ở một số vùng có thể bổ sung Si một cách đáng kể từ nước tưới, đặc biệt là nước ngầm từ vùng đất núi lửa rất giàu Si. Giả sử trung bình nồng độ Si trong khoảng 3-8mg Si/L và liều lượng nước tưới khoảng 10.000 m3 nước/ha/vụ, có thể tính được lượng Si bổ sung vào từ nước tưới là khoảng 30 – 80kg Si/ha/vụ.
– Quản lý rơm rạ, biện pháp sau thu hoạch: Về lâu dài, sự thiếu Si được ngăn chặn bằng biện pháp không lấy đi rơm rạ lúa sau khi thu hoạch, tái sử dụng rơm rạ (5 – 6% Si) và vỏ trấu (10% Si) để bón vào đất. – Biện pháp bón phân: Thường xuyên bón phân có chứa silic như Silicate Ca (14 – 19% Si): 120 – 200kg/ha hay Silicate K (14% Si): 40 – 60 kg/ha.
Sưu tầm và biên tập Ks Lê Minh Giang/Ms.Linh; Mr.Quang
Phân Loại Phân Bón Và Vai Trò Đối Với Cây Trồng
Phân bón là sản phẩm có chức năng cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng hoặc có tác dụng cải tạo đất, trong thành phần chứa một hoặc nhiều yếu tố dinh dưỡng vô cơ đa lượng, trung lượng, vi lượng, đất hiếm, hữu cơ, axit amin, vitamin, axit humic, axit fulvic, vi sinh vật có ích, có một hoặc nhiều: chất giữ ẩm, chất hỗ trợ tăng hiệu suất sử dụng phân bón, chất điều hoà sinh trưởng thực vật, chất phụ gia, yếu tố hạn chế sử dụng.
gồm có Đạm ký hiệu là N (tính bằng N tổng số); Lân ký hiệu là P (tính bằng PYếu tố dinh dưỡng đa lượng : 2O 5 hữu hiệu) và Kali ký hiệu là K (tính bằng K 2 O hữu hiệu) dạng dễ tiêu cây trồng có thể dễ dàng hấp thu được.
: gồm có Can xi (được tính bằng Ca hoặc CaO), Magiê (được tính bằng Mg hoặc MgO), Lưu huỳnh (được tính bằng S) và Silíc (được tính bằng Si hoặc SiOYếu tố dinh dưỡng trung lượng 2 hoà tan) dạng dễ tiêu cây trồng có thể dễ dàng hấp thu được.
Bao gồm các thành phần: chất hữu cơ, axit amin, vitamin, axit humic, axit fulvic, …
Bao gồm các Vi sinh vật có lợi như VSV cố định đạm, phân giải lân, phân giải xenlulo…
Là các kim loại nặng gồm: Asen (As), Cadimi (Cd), Chì (Pb), Thuỷ ngân (Hg), Ti tan (Ti) Crôm (Cr) hoặc các vi khuẩn gây bệnh gồm: vi khuẩn E.coli, Salmonella hoặc các chất độc hại khác như: biuret, axit tự do với hàm lượng cho phép được quy định tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.
Ngoài ra, trong phân bón còn có chứa chất giữ ẩm, chất hỗ trợ tăng hiệu suất sử dụng phân bón, chất điều hoà sinh trưởng thực vật, chất phụ gia…
: là loại trong thành phần chỉ chứa một yếu tố dinh dưỡng đa lượng N hoặc P 2O 5 hữu hiệu hoặc K 2 O hữu hiệu.
Một số loại phân bón phổ biến và vai trò của phân bón ?
Trên thị trường phân bón hiện nay, thành phần cũng như tên gọi các loại phân bón rất đa dạng. Bao gồm một số loại sau:
là loại phân có tỉ lệ N cao nhất chứa 44-48% N nguyên chất. Trên thị trường có bán 2 loại phân urê có chất lượng giống nhau: Loại tinh thể màu trắng, hạt tròn, dễ tan trong nước, có nhược điểm hút ẩm mạnh. Loại có dạng viên, nhỏ như trứng cá. Loại này có thêm chất chống ẩm nên dễ bảo quản, vận chuyển nên được dùng nhiều trong nông nghiệp. Phân urê có khả năng thích ứng với nhiều loại đất và cây trồng khác nhau, thường được dùng để bón thúc.
có chứa 33-35% N, có dạng tinh thể muối kết tinh có màu vàng xám, dễ chảy nước, dễ tan trong nước, dễ vón cục, khó sử dụng và bảo quản. Là loại phân sinh lý chua, nhưng có thể bón cho nhiều loại cây trồng trên nhiều loại đất khác nhau.
còn gọi là phân SA, chứa 20-21% N, 39% S. Có dạng tinh thể, mịn, màu trắng ngà hoặc xanh xám, có mùi nước tiểu, vị mặn và hơi chua nên nhiều nơi gọi là phân muối diêm. Dễ tan trong nước, không vón cục, thường ở trạng thái tơi rời, dễ bảo quản, dễ sử dụng. Dùng để bón thúc cho tất cả các loại cây trồng trên nhiều loại đất khác nhau trừ đất bị phèn, bị chua.
chứa 24-25% N. Có dạng tinh thể mịn, màu trắng hoặc vàng ngà, dễ tan trong nước, ít hút ẩm, không bị vón cục. Là loại phân sinh lý chua, nên bón kết hợp với lân và các loại phân bón khác. Ở vùng khô hạn, đất nhiễm mặn không nên bón đạm clorua.
– Phân kali – magie sunphat: có dạng bột mịn màu xám, chứa 20-30% K 2 O, 5-7% MgO, 16-22% S, được sử dụng hiệu quả trên đất cát nghèo, đất bạc màu.
– Phân Agripac của Canada: có dạng khô, hạt to, không vón cục, chứa 61% K 2 O, thường dùng để trộn với các loại phân bón khác.
– Muối kali 40%: có dạng muối trắng kết tinh có lẫn một ít vảy màu hồng nhạt, chứa 40% K, sử dụng hạn chế trên đất mặn.
Trên thị trường hiện có các loại sau: loại 2 yếu tố (N-P, N-K, P-K), loại 3 yếu tố (N-P-K), loại 4 yếu tố (N-P-K-Mg).
– Phân Amophor: tỉ lệ N:P:K là 1:1:0, chứa 18% N và 18% P 2O 5, dạng viên rời, dùng để bón cho đất phù sa, đất phèn.
– Phân Diamophor (DAP): tỉ lệ N:P:K là 1:2,6:0, chứa 18% N, 40% P 2O 5, thích hợp cho đất phèn, đất bazan.
– Phân hỗn hợp: 20:20:0; 23:23:0; 10:10:0 dùng để bón lót.
– Phân kali nitrat: chứa 13% N, 45% K 2 O, dùng để bón cho đất nghèo kali.
– Phân hỗn hợp: 30:0:10; 20:0:20; 20:0:10, dùng để bón vào cuối thời kỳ sinh trưởng của cây.
– Phân PK 0:1:3: chứa 55% supe lân và 45% KCl, dùng cho đất bạc màu, đất cát nhẹ.
– Phân PK 0:1:2: chứa 65% supe phôt phat và 35% KCl.
– Phân Amsuka: có tỉ lệ NPK là 1:0,4:0,8, được sản xuất bằng cách trộn amôn với supe lân đã trung hòa vào muối KCl
+ Loại có tỉ lệ NPK là 1:0,4:1,3; được sản xuất bằng cách trộn muối nitrat với axit photphoric; chứa 13% N, 5,7% P 2O 5, 17,4% K 2 O.
+ Loại có tỉ lệ NPK là 1:0,3:0,9; được sản xuất bằng cách trộn muối nitrat với axit sunphuric; chứa 13,6% N, 3,9% P 2O 5, 12,4% K 2 O.
– có tỉ lệ NPK là 5:10:3; trong phân ngoài chứa NPK còn có 6,7% MgO, 10-11% SiO Phân viên NPK Văn Điển: 2, 13-14% CaO.
– Phân hỗn hợp NPK 3 màu: do nhà máy phân bón Bình Điền 2 sản xuất, có các dạng: 15:15:15; 20:20:15; 15:10:15; 16:16:8; 14:8:6; 15:15:6.
– Phân tổng hợp NPK: do nhà máy phân bón Đồng Nai sản xuất, gồm các dạng: 16:16:8; 14:8:6; 10:10:5; 15:15:20.
– Phân lưu huỳnh: phân supe lân chứa 12% S, phân supe hạt kali chứa 18% S, phân sunphat amon (SA) chứa 23% S, phân sunphat kali – magie chứa 16-22% S.
– Phân canxi: phân lân nung chảy Văn Điển chứa 28-32% Ca, phân lân NPK Văn Điển chứa 13-14% CaO, phân supe lân chứa 22-23% CaO.
– Phân magie: phân lân Văn Điển chứa 17-20% Mg, phân sunphat – magie chứa 5-7% Mg, phân borat magie chứa 19% Mg.
– Phân Bo: gồm phân axit boric, phân borat natri, borat magie.
– Phân mangan: gồm sunphat mangan, clorua mangan, pecmanganat kali.
– Phân Molipden: gồm molipdat natri, molipdat amon.
– Phân kẽm: gồm sunphat kẽm, clorua kẽm.
– Là những hợp chất dinh dưỡng, có thể là các nguyên tố đa lượng, trung lượng hoặc vi lượng, được hòa tan trong nước và phun lên cây để cây hấp thụ.
– Phân bón lá có thể là các loại phân đơn như N, P, K, Cu, Zn,… Tuy nhiên phần lớn các loại phân bón qua lá là những hỗn hợp các chất dinh dưỡng đa lượng và vi lượng ở dạng hòa tan trong nước.
Phân chuồng: là phân do gia súc thải ra như phân lợn, phân trâu bò ngựa, phân gà vịt… Thành phần dinh dưỡng của phân chuồng gồm các đa lượng và vi lượng với hàm lượng tùy thuộc từng loại, thời gian và phương pháp ủ phân.
là phân hữu cơ được chế biến từ rác, cỏ dại, thân lá cây xanh, bèo tây, rơm rạ, chất thải rắn thành phố… được ủ với một số phân men như phân chuồng, nước giải, lân, vôi… cho đến khi hoai mục.
là loại phân hữu cơ, sử dụng các loại bộ phận trên mặt đất của cây. Phân xanh thường được sử dụng tươi, không qua quá trình ủ. Cây phân xanh thường là cây họ đậu hoặc cỏ lào, cây quỳ dại…
– Phân than bùn: như Biomix, Biofer, Komix, Compomix, lân hữu cơ sinh học sông Gianh…
Đăng ký đánh giá, chứng nhận hợp quy phân bón ở đâu ?
Trung tâm giám định và chứng nhận hợp chuẩn hợp quy – VietCert
Trụ sở Hà Nội: 0905. 924 299 – Trụ sở HCM: 0905 357 459 – Trụ sở Đà Nẵng: 0935. 711 299 – Trụ sở Cần Thơ: 0905. 539 099 – Trụ sở DakLak: 0905 527 089
Email: info@vietcert.org
Bạn đang đọc nội dung bài viết Bài 5: Bo (B) Và Vai Trò Đối Với Cây Trồng (Tiếp Theo) trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!