Cập nhật nội dung chi tiết về Bài 2: Phân Lân Và Sự Phân Loại Lân (Tiếp Theo) mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
2.3. Một số loại khác ít phổ biến.
* Phân lân ở dạng nước.
Đó là hỗn hợp các axit photphoric như axit octophotphoric H3PO4, axit pyrophotphoric H4P2O7, axit triphotphoric H5P3O10, axit tetraphotphoric H6P4O10… Sản phẩm chứa đến 75 – 79% P2O5.
* Photphin. Là hỗn hợp các photphua hydro hóa lỏng nước ở nhiệt độ – 88oC và chuyển sang thể rắn ở nhiệt độ -134oC. Phân có chứa đến 91% P.
Các photphua thường dùng là H3P, H6P12 và H4P2.
3. Các loại phân lân tự nhiên.
Đó là loại quặng khai thác từ các mỏ dùng làm phân bón. Các mỏ này có nguồn gốc do núi lửa phun ra tạo thành hoặc do lân tích đọng ở đáy biển tạo thành. Lân trong các loại quặng này đều là các hợp chất photphat canxi có chứa gốc Cl–, F–, OH– hay CO32- . Tùy theo thành phần hợp chất, nguồn gốc thành tạo mà phân làm hai loại apatit và photphorit. Apatit phần lớn có nguồn gốc phún xuất và có cấu trúc tinh thể hoặc vi tinh thể và cũng khó phá vỡ, khó dùng để bón trực tiếp. Apatit Lào Cai cũng thuộc về loại này. Các loại quặng nguồn gốc trầm tích, cấu trúc vô định hình, dễ phá vỡ có thể dùng để bón trực tiếp gọi là photphorit. Các loại này thường lẫn lộn với đất có nhiều chất hữu cơ và tỉ lệ Fe, Al cao.
3.1. Photphorit.
Photphorit sử dụng ở các nước EU đều lấy từ các mỏ của Bắc Phi, Mỹ, canada, SNG. Mỏ này nhỏ trữ lượng ít hàm lượng lân thấp. Trong các hang núi đấ vôi ven bờ biển (Còn gọi là phân lèn). Các núi đá này rải rác ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Bắc Thái, Hòa Bình, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Bình. Tính chất các loại này gần giống photphorit Vĩnh Thịnh.
Cần phân biệt phân lèn là photphorit chính cống với loại phân cũng lấy được từ trong hang đá nhưng là xác của phân dơi, chim chóc sống lâu trong hang đá để lại. Loại phân này là một loại phân đặc biệt giàu chất dinh dưỡng rất tốt, dùng như các loại phân hữu cơ nhiều yếu tố N, P, K và vi lượng khác hẳn photphorit thông thường.
Chất lượng của photphorit được đánh giá theo các tiêu chuẩn sau:
– Tính chất vật lý- xốp nhẹ.
– Tính chất hóa học: Lân tổng số và lân tan trong axit citric cao, tỷ lệ CaO cao và tỷ lệ P2O3 thấp, hàm lượng fluo thấp.
Chất lượng photphorit thay đổi rất nhiều tùy nơi khai thác. Các loại photphorit của Maroc, Angieri, Mỹ, Canada chất lượng tốt được nghiền bón trực tiếp và có tín nhiệm trên thị trường. Photphorit ở mỏ Vĩnh Thịnh và các núi đá vôi nhiều sắt nhôm, tỷ lệ lân thấp thay đổi rất nhiều tùy nơi khai thác. Hàm lượng P2O5 tổng số thay đổi từ 10-31% P2O5.
Ưu điểm chính của bột photphorit là có khả năng khử chua, hiệu lực lâu dài trong nhiều vụ.
Nhược điểm chính là không phải đất nào, cây nào bón photphorit cũng có hiệu lực. Ở đất trung tính và ít chua, photphorit chỉ có hiệu lực rõ đối với một số cây họ đậu và cây phân xanh, cây họ thập tự.
Ở đất chua pH< 5,5 hiệu lực của photphorit mới rõ. Đất càng chua hiệu lực càng rõ. Hiệu lực photphorit rõ nhất ở các chân ruộng trũng, lầy thụt giàu hữu cơ.
3.2. Apatit.
Apatit phần lớn là các mỏ thành tạo có nguồn gốc phún xuất, nhưng cũng có mỏ có nguồn gốc trầm tích. Mỏ apatit Lao Cai thuộc loại sau.
Quặng loại 3 được làm giàu để sản xuất supe lân. Quặng loại hai dùng để sản xuất phân lân nung chảy.
Trong 3 loại quặng, quặng 1 có cấu trúc tinh thể, ít bền chặt, dễ phá vỡ, có thể nghiền bón trực tiếp, nhưng hàm lượng P2O5 cao nên dùng để sản xuất supe lân và xuất khẩu. Quặng loại 3 có hàm lượng P2O5 thấp có thể dành nghiền bón trực tiếp nhưng tinh thể khá bền vững, hiệu lực kém hơn.
Hiệu lực các loại phân bón khó tan dùng bón trực tiếp phụ thuộc vào sự tiếp xúc của các phân với đất và rễ cây. Dựa vào axit do rễ cây tiết ra và dựa vào độ chua của đất mà các loại phân khó tiêu trở thành dễ tiêu. Cây có thể sử dụng được. Các biện pháp chính để làm tăng hiệu quả các loại phân lân này là:
– Nghiền mịn: Độ mịn càng cao càng có hiệu quả. Phân phải có độ mịn đạt 20% qua rây 0,25 mm mới có thể làm tăng năng suất khá. Nếu giá thành cho phép tốt nhất là 100% qua rây 0,10 mm.
– Bón sớm: các loại phân lân khó tan chỉ có thể bón lót. Bón tập trung theo hàng hoặc hàng cây tốt hơn bón vãi ra ruộng vì phân dễ tiếp xúc với cây hơn. Trong trường hợp dùng với lượng lớn để vừa cải tạo độ chua vừa cung cấp cho cây mới nên bón vãi và cày bừa trộn đều trong toàn tầng đất canh tác.
– Ủ với phân chuồng để lợi dụng chất chua khi chất hữu cơ phân giải. Trộn photphorit với các loại phân vô cơ có khả năng gây chua như amon sunfat, amon clorua hay các loại phân Kali cũng có tác dụng làm tăng hiệu lực của phân.
Cũng như các loại phân ít hòa tan, sự phối hợp phân lân khó tiêu với các loại phân lân dễ tiêu thường có tác dụng tốt. Nhà máy supe lân Long Thành đã có sáng kiến xuất loại supe lân PA bằng cách trộn supe lân sau khi ủ 5 ngày với bột đá xà vân và bột apatit hoặc bột phophorit. Loại phân này có tác dụng giống như các loại phân snr xuất theo quy trình chậm tan.
Lượng bón các loại phân khó tiêu nên cao hơn supe lân 1,5 – 2 lần.
4. Phân lân vi sinh:
Lân trong đất thường tồn tại dưới hai dạng:
Các hợp chất lân vô cơ và các hợp chất lân hữu cơ. Lân hữu cơ chiếm khoảng 25 – 50 % tổng số lượng lân trong đất tùy thuộc lượng hữu cơ và mùn trong đất nhiều hay ít. Ở đất mới khai phá, đất vùng ôn đới, mùn nhiều, lân hữu cơ rất cao. Khi có nhiệt độ thích hợp, không quá thấp các vi sinh vật phân giải chất hợp chất hữu cơ chứa lân thành lân vô cơ cung cấp cho cây. Nhiệt độ dưới 20 oC, hoạt động này ngừng lại, cây trồng sử dụng lân chủ yếu dưới dạng vô cơ chứa sẵn trong đất. Khi nhiệt độ từ 35oC trở lên sự giải chất hữu cơ rất mạnh nguồn cung cấp lân dựa nhiều vào lân hữu cơ phân giải ra.
Quá trình phân giải lân hữu cơ có sự tham gia của một loại vi sinh vật đặc biệt gọi là vi sinh vật phân giải lân hữu cơ (Bacillus megatherium phosphaticum). Để tăng cường sự phân giải lân hữu cơ trong đất người ta đã tuyển chọn các dòng có khả năng phân giải mạnh bổ sung thêm vào đất. Đó là các loại phân vi sinh vật phân giải lân hữu cơ. Loại phân vi sinh vật phân giải lân hữu cơ này chỉ có hiệu quả trên đất ôn đới giàu hữu cơ. Đất vùng nhiệt đới nghèo hữu cơ và mùn ít có triển vọng.
Trong đất cũng có các loài vi sinh vật chuyển hóa các dạng lân vô cơ khó tiêu thành dạng lân vô cơ dễ tiêu. Loại vi sinh vật phân giải lân vô cơ khó tiêu này tìm thấy nhiều ở chung quanh rễ các loại cây họ đậu, rễ bèo dâu, rễ lúa các dòng kháng thiếu lân. Người ta cũng đã thử sử dụng các dòng vi khuẩn này để sản xuất phân vi sinh vật phân giải lân vô cơ bón vào đất. Tuy nhiên các dòng vi khuẩn này chỉ có thể phân giải canxi photphat mà trong đất nhiệt đới chứa lân vô cơ khó tiêu tồn tai dưới dạng sắt photphat và nhôm photphat là chính. Vì vậy triển vọng của phân vi sinh vật phân giải lân vô cơ ở đất nhiệt đới chua cũng không có gì là hấp dẫn.(Còn nữa)
Sưu tầm và biên tập: Ks Lê Minh Giang
Bài 2: Phân Lân Và Sự Phân Loại Lân
PHÂN LÂN VÀ SỰ PHÂN LOẠI LÂN:
Sự phân loại lân dựa theo độ hòa tan của chúng:
1/ Phân lân hòa tan trong nước: supe lân (SP), điamôn photphat (DAP)
2/ Phân lân ít hòa tan trong nước, chỉ hòa tan trong axit yếu như axit xitric 2 % axit foomic hay xitrat amôn, phân lân nung chảy TP, photphat cứt sắt (còn gọi là Toomat sowlac), photphan, phân lân kết tủa (dicanxi phôtphat) và phân lân chậm tan (phân lân axit hóa một phần).
3/ Phân lân khó tan. Đó là các loại quặng tự nhiên khai từ mỏ lên đem nghiền để bón trực tiếp như apatit, photphorit, bột xương động vật…
Người ta còn phân loại theo quá trình chế biến:
1/ Phân lân tự nhiên: là sản phẩm khai thác từ các mỏ, nghiền bột đem sử dụng, không qua quá trình chế biến. Phần lớn phân lân tự nhiên là phân khó hòa tan: apatit photphorit, vivianit.
2/ Phân lân chế biến bằng axit. Có hai loại:
– Hòa tan trong nước: supe lân, điamôn photphat.
– Hòa tan trong axit yếu: phân lân kết tủa, phân lân chậm tan.
3/ Phân lân sử dụng nhiệt năng để chuyển hóa: Các loại phân lân nung chảy và phân lân cứt sắt.
1. Các loại phân lân điều chế bằng axit.
1
.1.
Supe lân.
Supe lân là loại phân lân được sản xuất bằng cách cho tác động axit sunfuric với apatit. Lượng axit được tính toán thế nào để chuyển hết apatit thành canxi photphat. Trên thị trường có 3 loại supe lân:
– Loại supe lân thông thường: Loại này điều chế bằng cách cho tác động photphat tự nhiên với axit sunfuric, tạo thành monocanxi photphat và thạch cao. Tỷ lệ thạch cao chiếm 50%. Tùy theo hàm lượng lân trong quặng apatit mà tỷ lệ lân trong phân thay đổi từ 16 – 24 % P2O5 tan trong a môn xitrat trong đó có đến 90 % tan trong nước, ngoài ra có từ 8 – 12 % và khoảng 28 % CaO ở dạng CaSO4, một ít vi lượng như Fe, Zn, Mn, Bo, Mo.
– Loại supe lân giàu: là loại supe lân điều chế từ apatit tác động bởi hỗn hợp axit sunfuric và photphoric. Tùy theo tỷ lệ giữa axit sunfuric và axit photphoric mà có chứa 25 – 35 % P2O5 hòa tan trong a môn xitrat. Lượng CaSO4 còn lại ít hơn trong supe lân, chứa từ 6 – 8% S và khoảng 20 % CaO..
– Loại supe lân rất giàu: Được sản xuất bằng cách cho tác động axit photphoric với apatit có chứa từ 36 -38% P2O5 tan trong amôn xitrat.
Trong quặng apatit có chứa Fe, Al và các vi lượng nhiều ít tùy quặng. Axit sunfuric cũng kết hợp với Fe, Al tạo thành sufat sắt hay sunfat nhôm.
Trước đây người ta cho rằng lân tan trong nước càng nhiều chất lượng supe lân càng cao nên sản xuất supe lân thường dùng thừa một ít axit tạo thành axit photphoric, để cho trong khi cất trữ supe lân, lân hòa tan trong nước không chuyển ngược lại thành lân ít hòa tan. Vì vậy, supe lân thường chua. Lượng axit càng cao, supe lân càng dễ hút ẩm, ướt nhão. Thông thường tỷ lệ axit trong phân không nên quá 5% và độ ẩm dưới 13%. Từ khi người ta nhận thấy rằng không nhất thiết lân phải hòa tan trong nước nhiều cây mới dễ sử dụng, các nhà sản xuất phân supe lân giảm bớt số axit sử dụng, phân có chứa hai canxi phôtphat nhiều hơn, phân không chua ít hút ẩm và tơi rời hơn.
Tùy theo nguyên liệu sử dụng mà supe lân có màu xám trắng hay xám xẫm. Trên thị trường thường trình bày dưới hai dạng: Dạng supe lân bột và dạng supe lân viên. Do lân trong supe lân dễ hòa tan, khi bón vào đất dễ bị các nhân tố trong đất chuyển thành dạng cây khó sử dụng. Việc phân supe lân vò thành viên nhằm giảm hiện tượng này làm cho hiệu quả supe lân cao hơn.
Như vậy hai mặt mạnh của supe lân là:
– Dễ hòa tan, hiệu quả nhanh hơn các loại phân lân khác.
– Có chứa S.
Mặt mạnh thứ hai gần đây mới bắt đầu nhận thức hết. Nếu liên tục bón nhiều phân đã bị tẩy bớt lưu huỳnh như loại supe lân rất giàu điều chế từ axit photphoric trong nhiều năm thì sự thiếu S ngày càng thể hiện rõ nét. Trong tương lai S được xem là yếu tố phân bón thì supe lân nên được xem là loại phân có hai yếu tố.
Vì hàm lượng lân trong supe lân và hàm lượng S trong phân thay đổi rất lớn tùy theo chất lượng quặng và qui trình sản xuất nên phân lân trên thị trường cần được ghi ít nhất hàm lượng của lân hòa tan trong a môn xitrat và hàm lượng S tổng số. Ghi rõ hàm lượng CaO và các vi lượng khác của phân là điều nên làm.
Trên thương trường còn có loại phân supe được sản xuất từ axit xitric, hoặc hỗn hợp axit xitric và axit sunfuric. Sản phẩm là các nitrophotphat có hàm lượng N và P2O5 khác nhau. Tùy theo tỷ lệ giữa N và P mà nó được sư dụng như phân lân hay phân đạm (sẽ trình bày ở dạng phân phức).
Nhà máy supe lân Lâm Thao Vĩnh Phú và nhà máy supe lân Long Thành chủ yếu sản xuất phân supe lân. Supe lân Lâm Thao có chứa 16,5% P2O5 tan trong xitrat amôn 11,2%, 22-23% CaO và có chứa ít hơn 4 % axit sự do.
Vì nước ta, diện tích trồng lúa rất lớn, sản xuất phân lân chủ yếu là để bón cho lúa nên cả hai nhà máy supe lân Lâm Thao và Long Thành đều chưa trang bị dây chuyền để sản xuất supe lân viên. Chắc rằng sản xuất phân viên sau này sẽ được chú ý, vì trên đất laterit chua, hiệu quả của phân viên sẽ cao hơn và bền hơn phân bột rất nhiều.
Supe lân là loại phân rất quý cho đất trung tính, đất cacbonat và đất cà giang (đất kiềm do nhiều natri). Bón supe lân vào các loại đất này, lân cũng bị hấp phụ giữ lại do chuyển thành các dạng hợp chất lân giàu canxi, ít hòa tan hơn. Nhưng các hợp chất này về sau vẫn tiếp tục được cây sử dụng. Ở các loại đất có độ chua cao, nhiều sắt di động như đất chua, đất phèn, đất đồi laterit chua, đất trũng lầy thụt, supe lân dễ bị hấp phụ và giữ chặt trên keo đất hoặc chuyển thành các photphat Fe, Al. Lân bị giữ chặt theo kiểu này cây không còn sử dụng được nữa. Nhiều thí nghiệm trên đất đồi trồng hoa màu chua hiệu lực vụ sau của supe lân rất thấp còn trên đất phèn, nhất là sau khi đất bị xì phèn hiệu lực còn lại không còn gì nữa.
Sản xuất các loại supe lân viên hay các loại phân lân axit hóa một phần (dùng lượng axit ít hơn quy trình thông thường) cần được xem xét đến, vì hiệu quả phân sẽ cao hơn.
Trộn thêm các loại vi lượng vào supe lân rất có ích, vừa cung cấp thêm vi lượng hữu hiệu cho cây vừa làm tăng hiệu lực supe lân. Các vi lượng thường được chú ý là bo, molipđen, kẽm và mangan. Super lân dùng bón cho cây họ đậu nên chú ý trộn thêm magiê, mangan, molypđen và bo cho vùng trồng lúa nên chú ý đến kẽm và đồng. Những nhận xét đầu tiên của trung tâm nông nghiệp Đồng Tháp Mười cho thấy trên đất phèn nên chú ý trộn thêm bo. Nhà máy super lân Long Thành đã trộn thêm bột đá xà vân để có loại super lân M chứa 17% P2O5 tổng số, 14,2% P2O5 tan trong amôn xitrat và 3% MgO và lượng axit còn lại 1%.
Trong thành phần super lân có canxi sunfat. Ngoài tác dụng cung cấp S ra, canxi sunfat còn là chất để cải tạo đất kiềm do natri gây ra. Canxi trong CaSO4 đẩy Na ra khỏi keo đất và làm giảm độ kiềm của đất. Super lân có thể xem như là chất cải tạo đất kiềm có hiệu quả cao do tỷ lệ 50% CaSO4.
Trước đây do tính chất cải tạo kiềm này người ta lầm tưởng bón supe lân làm chua đất. Theo Gros nhiều thí nghiệm lâu năm chứng tỏ rằng ngay cả khi bón với liều lượng cao supe lân không ảnh hưởng đến độ chua của đất.
Phân supe lân phù hợp cho tất cả các loại đất, loại cây, có thể dùng để bón lót, lên mặt đất hoặc bón theo hàng theo hốc, có thể dùng để bón thúc, hòa nước để tưới và phun lên lá. Ở đất chua, hiệu lực supe lân có thể được tăng cường nếu đất được bón vôi.
Nông dân miền Bắc đã quen với tập quán ủ phân chuồng có thêm supe lân. Cách làm này làm cho hiệu lực phân lân tăng và làm giảm sự mất đạm khi ủ phân. (Còn nữa)
Sưu tầm và biên tập – Ks Lê Minh Giang
Cẩm Nang Phân Lân: Kỹ Thuật Sử Sụng Phân Lân
Ngày đăng : 04/06/2019 – 8:36 AM
1. Chọn dạng phân bón Để phát huy hiệu quả của phân lân đối với cây trồng, trước khi sử dụng phân lân chúng ta cần lựa chọn những loại phân lân phù hợp dựa trên các cơ sở sau:
– Căn cứ vào pH đất: + Supe lân nên bón trên đất trung tính, khi bón supe lân trên đất chua, trước đó phải bón vôi để trung hòa độ chua đến pH=6,5 thì phân này mới phát huy hết hiệu quả.
+ Phân lân thiên nhiên, phân lân nung chảy bón cho đất chua, đất bạc màu, đất trũng, đất lầy thụt.
– Căn cứ các yếu tố dinh dưỡng đi kèm trong phân lân: Cũng có vai trò quan trọng để nâng cao hiệu quả của phân bón. Nhiều trường hợp dạng phân bón này tỏ ra tốt hơn dạng phân bón kia là do yếu tố dinh dưỡng đi kèm.
+ Supe lân do có chứa S nên thể hiện tính ưu việt với các cây có nhu cầu S cao.
+ Phân lân nung chảy nhờ có Mg, SiO2, nên thể hiện tính ưu việt rất rõ trên đất thoái hóa rửa trôi mạnh hay khi bón cho các cây trồng có nhu cầu về các chất này cao.
Tuy nhiên, sự phối hợp nhiều loại phân lân trong sử dụng thường cho hiệu quả hơn. Do mỗi dạng phân lân đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định sự phối hợp chúng trong sử dụng sẽ phát huy được những ưu điểm, khắc phục được nhược điểm của từng dạng phân, tạo nên hiệu quả sử dụng phân bón chung tốt hơn.
2. Vai trò của dạm đối với hiệu quả của việc bón lân Phân lân chỉ phát huy tác dụng khi đất có đủ đạm hay được bón cân đối với phân đạm theo yêu cầu của cây. Trong trồng trọt nếu chưa có khả năng tăng được lượng phân N bón thì chưa tăng lượng phân bón vì sẽ không đem lại hiệu quả.
3. Thời kỳ bón phân lân – Đối với hầu hết tất cả các loại cây trồng ở thời kỳ đầu sinh trưởng (thời kỳ cây con) rất cần lân để ra rễ và nếu thiếu lân ở thời kỳ này sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng lân. Hơn nữa lân được tích lũy vào trong cây ở giai đoạn sinh trưởng trước có thể chuyển hóa để tái sử dụng cho giai đoạn sau khi trong đất thiếu.
– Vì vậy, cần chú ý bón phân lân đủ cho cây trồng ngay từ đầu đối với tất cả các loại cây trồng. Bất cứ loại phân nào, cũng lấy bón lót là chính.
– Việc bón thúc phân lân có thể cần thiết khi cây trồng có biểu hiện thiếu lân, hay vì lý do nào đó nào đó chưa bón lót toàn bộ lượng phân lân cần bón. Riêng trong sản xuất hạt giống, rất cần bón thúc phân lân trước thời kỳ hình thành hạt nhằm làm tăng tỷ lệ lân trong hạt giống, làm tăng sức nảy mầm và các chất lượng khác cho hạt giống. Việc bón thúc phân lân chỉ đạt hiệu quả khi bón bằng phân supe lân.
4. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phân lân Để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phân lân khi sử dụng chúng ta cần chú ý những điểm sau:
– Bón phân lân vào thời kỳ cây có nhu cầu lân cao (vườn ươm, ruộng mạ, lúc mới trồng cây trồng).
– Bón phân lân càng gần rễ cây càng tốt, bón cho cây trồng cạn thường bón theo hàng theo hốc.
– Bón phân lân kết hợp với phân chuồng, theo tỷ lệ so với phân chuồng, 2% đối với supe lân, 3 – 5% đối với photphorit.
– Phối hợp supe lân các loại lân khác trong sử dụng.
– Bón phân lân theo đất: Đất chua nghèo lân dùng phân lân thiên nhiên; đất bạc màu, đất nhẹ nghèo Mg dùng phân lân nung chảy. Đất kiềm, trung tính dùng phân supe lân.
– Bón phân lân theo cây: Ưu tiên bón phân lân cho các cây có nhu cầu lân cao, cây trồng cạn đặc biệt là các cây ngắn ngày nên bón supe lân, lúa nên bón phân lân nung chảy hay phân lân thiên nhiên, cây bộ đậu và phân xanh nên dùng phân lân thiên nhiên.
– Chỉ supe lân mới có thể được dùng để bón thúc còn các loại phân lân khác chỉ dùng bón lót.
5. Có thể bón phân lân cải tạo và bón lân duy trì – Bón phân cải tạo: Là bón lượng lân lớn hơn nhiều so với nhu cầu của cây nhằm làm tăng hàm lượng lân có trong đất đến một mức thỏa đáng tạo khả năng để đất cung cấp lân tốt cho cây và thường làm đối với đất nghèo lân.
– Bón phân duy trì: Là bón lượng phân vừa đủ bù đắp lượng phân mà cây trồng lấy đi hằng năm, để ổn định lượng lân có trong đất.
– Trong thực tế người ta có thể bón tập trung lượng phân lân lớn của một số vụ cây trồng vào một lần bón cho cây trồng nào có nhu cầu lân cao nhất trong hệ thống luân canh để giảm chi phí vận chuyển và bón phân (tiện cho việc cơ giới hóa)(bón cải tạo).
– Tuy nhiên bón một lượng phân lân cải tạo lớn có thể dẫn đến việc cản trở hút các nguyên tố vi lượng đặc biệt là Zn ở cây (do bị cố định). Ngoài ra khi trong đất có nhiều sắt, nhôm ở dạng hòa tan và khoáng sét nếu bón lượng phân lân quá lớn vào đất chúng dễ chuyển thành dạng khó tiêu hiệu lực còn lại rất thấp gây lãng phí, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cây. Vì vậy cần bón phân đúng lúc và liên tục để tăng hàm lượng lân dễ tiêu trong đất khác.
Phân Lân Là Gì? Một Số Cách Sử Dụng Phân Lân Hiệu Quả
Bón phân là việc vô cùng cần thiết để giúp cây trồng phát triển và đạt năng suất cao. Trong đó, phân lân là một trong 3 nguyên tố đa lượng rất cần thiết đối với cây trồng, có vai trò quan trọng trong việc sinh trưởng của cây. Cùng Agri tìm hiểu xem phân lân là gì? Một số cách sử dụng phân lân giúp nâng cao hiệu quả trồng trọt.
Phân lân là một trong những loại phân bón vô cơ phổ biến cho cây trồng có công dụng riêng bên cạnh việc kết hợp với phân đạm, phân kali tạo thành hỗn hợp cùng lúc cung cấp các yếu tố dinh dưỡng cho cây trồng.
Phân lân có chứa nguyên tố dinh dưỡng photpho dưới dạng ion phốt phát, dùng bón cho cây trồng. Độ dinh dưỡng của phân lân được đánh giá theo tỷ lệ % khối lượng P205 tương ứng với lượng P có trong thành phần của nó. Quặng apatit, photphorit thường là nguyên liệu để sản xuất phân lân.
Ở thời kỳ sinh trưởng phân lân rất cần thiết cho cây, nó có công dụng thúc đẩy các quá trình trao đổi chất và năng lượng của thực vật, làm cho cành lá khỏe, hạt chắc, quả/củ to. Cụ thể:
Phân lân ảnh hưởng đến sự vận chuyển đường, bột tích lũy về hạt và các bộ phận của chất nguyên sinh. Giúp cây trồng chống nóng, chống lạnh. Bên cạnh đó còn tăng khả năng chống chịu với các điều kiện bất lợi khác như hạn hán, sâu bệnh, úng,….
Rất cần cho sự hình thành bộ phận mới của cây, kiến tạo nên hoạt chất hình thành mầm hoa, đẻ nhánh, phân cành, ra hoa, kết trái.
Phân lân còn có tác dụng đệm giúp cây chịu được chua kiềm.
Tham gia vào quá trình hô hấp, quang hợp và phát triển bộ rễ của cây.
Hạn chế tác hại của việc bón thừa đạm.
Khi thiếu lân cây trồng bị ảnh hưởng đáng kể dẫn đến năng suất thấp và chất lượng kém.
Cành lá sinh trưởng kém, rụng nhiều, lá ban đầu xanh đậm sau đó chuyển vàng và chuyển sang tím đỏ (bắt đầu từ các lá phía dưới trước và từ mép lá vào trong).
Thiếu lân làm giảm khả năng tổng hợp chất bột, quả ít, chín chậm, hoa khó nở, quả thường có vỏ dày xốp, nấm bệnh dễ tấn công và dễ bị thối.
Gây hạn chế trong quá trình quang hợp và hô hấp, ảnh hưởng đến quá trình đậu quả, giảm tính chống chịu ảnh hưởng lớn đến năng suất cây trồng.
Gây ảnh hưởng đến chất lượng ra hoa, quả, củ.
Rễ sinh trưởng chậm, cây thấp bé ảnh hưởng đến việc hấp thụ dinh dưỡng của cây.
Trở ngại cho việc tổng hợp protein do thiếu lân dẫn đến tích lũy đạm dạng Nitrat.
Lá bị nhỏ lại, bản lá bị hẹp và có xu hướng dựng đứng do quá trình tổng hợp protein bị ngưng trệ.
So với khi cây trồng bị thiếu lân thì biểu hiện thừa lân của cây trồng lại khó phát hiện hơn. Việc cây trồng bị thừa lân dễ kéo theo cây bị thiếu kẽm và đồng.
Bón nhiều phân lân sẽ gây ức chế sinh trưởng cây trồng dẫn đến thừa sắc tố. Khi thừa lân cây sẽ có biểu hiện:
Cây bị chín quá sớm, không kịp tích lũy được vụ mùa năng suất cao.
Lân thuộc loại nguyên tố linh động, nên có thể di chuyển từ cơ quan già sang cơ quan còn non và nhất là ở các bộ phận sinh trưởng.
Bón phân lân theo đất: Tùy thuộc vào tính chất, độ chua ít hay nhiều của đất mà lựa chọn loại phân cho thích hợp. Dùng phân thiên nhiên đối với đất chua nghèo lân, dùng phân lân nung chảy đối với đất bạc màu, đất nhẹ nghèo Mg và dùng super lân cho đất kiềm trung tính. Theo thành phần cơ giới của đất: đất thịt, thịt nặng khi bón phân lân thường bị giữ lại nên phải bón theo hàng và loại lân cây nhanh hấp thụ.
Bón phân lân theo cây: Lúa nên bón phân lân nung chảy hay phân lân thiên nhiên. Ưu tiên bón phân lân cho các loại cây có nhu cầu cao, cây trồng cạn đặc biệt là các cây ngắn ngày nên bón super lân.
Phân lân chủ yếu nên dùng để bón lót, dễ tiêu như Super lân thì có thể dùng để bón thúc.
Nên bón phân lân kết hợp với bón bổ sung các nguyên tố vi lượng thiết yếu, bón quá nhiều phân lân có thể khiến cây bị thiếu một số nguyên tố vi lượng.
Bón phân lân vào thời kỳ cây trồng có nhu cầu lân cao (ruộng mạ, vườn ươm, lúc cây mới trồng)
Đối với cây trồng cạn thường bón hàng theo hốc, bón càng rễ cây càng tốt.
Nên bón kết hợp với phân chuồng theo tỷ lệ so với phân chuồng, 2% đối với supe lân, 3 – 5% đối với photphorit.
Phối hợp supe lân với các loại lân khác trong sử dụng để tăng hiệu quả sử dụng phân lân.
Bên cạnh đó, người canh tác cần phải theo dõi canh tác tình hình cây trồng của mình để có những biện pháp xử lý kịp thời. Hạn chế sử dụng phân hóa học thay vào đó khuyến khích nên sử dụng phân vi sinh và phân hữu cơ nhiều hơn.
Với những chia sẻ từ bài viết này hy vọng sẽ mang lại những thông tin này hữu ích cho bạn đọc. Giúp dễ dàng và hiệu quả hơn trong việc bón phân lân cho cây trồng.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Bài 2: Phân Lân Và Sự Phân Loại Lân (Tiếp Theo) trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!