Đề Xuất 6/2023 # Bài 2: Phân Lân Và Sự Phân Loại Lân (Tiếp Theo Và Hết) # Top 14 Like | Vitagrowthheight.com

Đề Xuất 6/2023 # Bài 2: Phân Lân Và Sự Phân Loại Lân (Tiếp Theo Và Hết) # Top 14 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Bài 2: Phân Lân Và Sự Phân Loại Lân (Tiếp Theo Và Hết) mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Các nhà nghiên cứu chú ý vận dụng vai trò của vi sinh vật phân giải lân vô cơ theo một hướng khác. Nhờ phát hiện được các giống có khả năng phân giải lân vô cơ mạnh nên có triển vọng dùng các dòng này để thay thế vai trò của axit và nhiệt chuyển lân vô cơ khó tiêu thành dạng dễ tiêu để sản xuất phân lân. Nguyên lý cơ bản củ giải pháp này là dùng hỗn hợp hữu cơ tươi như bã mía, rỉ đường làm nguồn gốc cung cấp năng lượng cho hoạt động của vi sinh vật phân giải photphorit hay apatit (thường là các photphorit mềm, hợp chất lân dễ phân giải) thành dễ tiêu hơn. Các nhà nghiên cứu còn hi vọng rằng quá trình lên men có thể tạo ra các chất điều hòa sinh trưởng, chất diệt nấm, cố định đạm nên tên là phân lân hữu cơ vi sinh.

Đây là vấn đề mới. Khó khăn cơ bản là có dòng vi khuẩn có khả năng phân giải nhanh và sự cung cấp đủ chất hữu cơ cho quá trình lên men, bảo quản phân cho đến lúc sử dụng không mất chất dinh dưỡng và giữ được số vi sinh vật trong phân theo đúng quy định. Phân cần đảm bảo yêu cầu tối thiểu của một loại phân lân chế biến công nghiệp có tỷ lệ P2O5 trong phân lân ít nhất là trên 10 % với 80 % lân hữu hiệu.

Hệ số sử dụng lân của cây trồng rất thấp. Hệ số sử dụng biểu kiến chỉ đạt tối đa 30%. Tăng hệ số sử dụng thêm khoảng 10% nữa hết sức khó khăn. Cho nên các quy trình sử dụng phân lân vi sinh không nên đưa ra các mức bón quá thấp so với quy trình hướng dẫn khuyến nông. Ví dụ quy trình khuyến nông hướng dẫn bón cho cây lúa là 60 kg P2O5/ha thì các quy trình khuyến nông sử dụng phân vi sinh ít nhất cũng đảm bảo cung cấp cho cây ít nhất 90% số đó, 54 kg P2O5 / ha/vụ.

Cần đảm bảo đủ đạm cho cây phát triển. Các loại phân hữu cơ vi sinh, khó có khả năng tăng lượng đạm trong đất nhiều cho nên các quy trình sử dụng phân lân hữu cơ vi sinh nên đảm bảo bón đủ đạm cho cây, ít nhất 80 % số lượng đạm cần bón theo quy trình hướng dẫn khuyến nông. Ví dụ quy trình hướng dẫn nên bón 120 kg/ha/vụ cho lúa chiêm xuân ở vùng đồng bằng bắc bộ thì tổng số lượng đạm đưa vào cho cây lúa nếu sử dụng phân lân hữu cơ vi sinh cần đạt ít nhất là 96 kg N/ha/vụ.

Sự phối hợp với các loại phân khoáng (phân đạm, lân, kali) thích hợp, đảm bảo đủ để cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng là điều kiện quan trọng để phát huy được hiệu quả. Một hình thức phối hợp giữa phân lân hữu cơ vi sinh và phân khoáng như vậy nếu chi phí bón phân không vượt quá xa quy trình đang được áp dụng có thể được nông dân chấp nhận và sẽ rất có ích cho vùng đất cát biển, đất bặc màu những nơi thiếu hữu cơ nghiêm trọng và hoạt động của vi sinh vật yếu. Đó là bài toán khó khăn mà các nhà sản xuất phân lân hữu cơ vi sinh đang phải tiếp tục giải để có thể đứng vững.

Hiện nay có nhiều nhà sản xuất phân lân hữu cơ vi sinh như phân lân hữu cơ Thiên Nông, phân lân sinh hóa hữu cơ Komix của công ty sinh hóa nông nghiệp và thương mại thiên Sinh, phân sinh hóa hữu cơ Biomix của công ty phân bón hóa chất Kiên Giang, Biofer của Hội phân bón Việt Nam… đều sản xuất phân lân hữu cơ vi sinh.

Một loại phân lân khác gọi là Biosuper (phân lân super vi sinh) được sản xuất bằng cách trộn photphorit với các sản phẩm có chứa lưu huỳnh như than bùn sú vẹt hoặc đất có chứa lưu huỳnh thấp vùng mỏ lưu huỳnh (thiobacillus, thiooxidant). Loại vi sinh vật này oxy hóa S thành axit sunfuric, dựa vào axit tạo ra để chuyển lân khó tiêu thành dạng dễ tiêu. Các nhà sản xuất Australia và Canada đã sản xuất theo cách này và đưa ra thử nghiệm rộng rãi. Kết quả thử nghiệm cho thấy nguyên liệu sử dụng cần chứa lượng S đáng kể đủ để chuyển hóa các quặng lân khó tiêu. Hàm lượng lân trong sản phẩm thấp, hiệu lực không bằng supe lân và họ cho rằng các sản phẩm kiểu này có thể sử dụng tốt cho đồng cỏ hoặc đất khai hoang để phục hồi đất hoang và sử dụng cho các nước đang phát triển mà công nghiệp phân bón chưa phát triển.

5. Chọn loại phân lân như thế nào?

Các loại phân lân được chia thành 3 nhóm chính;

1/ Các loại dễ hòa tan bao gồm các nhóm lân chế biến bằng axit, lượng axit sử dụng đến mức tạo thành các photphat 1 canxi dễ tan trong nước. Tùy mức axit thừa 1-3% axit photphoric mà có mang tính chua nhiều hay ít. Do có còn một ít axit nên phân dễ hút ẩm. Các loại phân này thích hợp nhất ở các loại đất kiềm và trung tính vì phân có khả năng làm giảm độ kiềm của đất và tồn tại ở dạng cây dễ sử dụng. Ở các loại đất quá kiềm hoặc quá chua nhất là các đất quá chua sử dụng loại phân này (trừ đất lúa) nên dùng các loại phân viên. Nhờ được viên nên phân ít tiếp xúc với các nhân tố trong đất (canxi ở đất kiềm, sắt nhôm dễ đông ở đất chua và các keo đất mang dấu hiệu dương trong đất chua) làm giảm độ hòa tan.

Các loại phân lân giàu và rất giàu chứa ít lưu huỳnh ở dạng canxi sunfat thích hợp cho đất mặn chua ven biển giàu sunfat, đất trũng lầy thụt nhiều hữu cơ yếm khí. Trên 2 loại đất này, lưu huỳnh có thể làm tăng ion sunfat đến mức gây ngộ độc (đất mặn sunfat) hoặc làm tăng lượng H2S gây độc (đất lầy thụt yếm khí trồng lúa).

Supe lân thông thường có lợi cho đất thoái hóa, bạc màu, nghèo hữu cơ, nghèo lưu huỳnh, đất cát, thâm canh không có điều kiện hoàn trả hữu cơ; đất đồi thoái hóa, do cả hai mặt: cung cấp P và S. Nó cũng có lợi cho các cây cần nhiều S cây họ thập tự, họ hành tỏi, cây lấy dầu thuộc họ lạc, đậu đỗ, cau dừa chúng tôi các loại cây họ chè (chè, cà phê, ca cao) và cây lấy mủ.

2/ Các loại phân ít hòa tan và khó hòa tan thường rất hữu hiệu đối với các loại đất chua, giàu hữu cơ và sét dễ làm cho lân trong phân chuyển thành dạng khó tan.

Chỉ các loại đất có độ chua cao pH KCl< 5 và thành phần cơ giới của đất từ thịt trung bình trở lên đến thịt nặng và sét mới nên sử dụng các loại quặng tự nhiên khó tan như apatit và photphorit. Các loại phân lân ít hòa tan (không tan trong nước chỉ tan được trong axit citric 2%) như các loại phân lân axit hóa một phần (phân lân chậm tan), các loại phân lân chế biến bằng nhiệt (phân lân nung chảy) hiệu quả trên đất trung tính hoặc ít chua không kém supe lân nhưng trên đất chua càng phát huy được ưu điểm khử chua và sắt nhôm di động.

Sự cung cấp điều hòa lân trong giai đoạn đầu và giai đoạn cuối của cây trồng rất có lợi cho cây vì vậy sự phối hợp với tỷ lệ thích hợp khoảng 70% phân lân ít hòa tan có lợi cho mọi trường hợp.

Các loại phân lân chế biến bằng quy trình nhiệt thường giàu canxi, magie, natri có khi có cả kali và vi lượng thường có lợi cho đất cát, đất bặc màu, đất đồi thoái hóa. Trên các loại đất này cũng thường thiếu lưu huỳnh và kali. Sự phối hợp các loại phân này với supe lân hoặc kali sunfat, amon sunfat nên được chú ý.

3/ Các loại phân được gọi là phân lân sinh hóa hữu cơ, nhiều chất hữu cơ hơn là lân. Đối với đất thiếu lân dễ tiêu cần được bổ sung thêm cho đủ lượng lân dễ tiêu cần thiết. Loại phân này có triển vọng tốt cho các loại đất cát, đất bạc màu, đất thoái hóa thiếu hữu cơ.

Các loại phân lân có chứa N như DAP được nông dân vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, đặc biệt vùng thấp Đồng Tháp mười, Hậu Giang chú ý vì hai lý do:

– Đất thiếu lân dễ tiêu đến mức hạn chế trong lúc hữu cơ và đạm có trong đất tương đối khá. Đất tuy giàu đạm nhưng thiếu N dễ tiêu. Tỷ lệ 46 – 50% P2O5 và 18 – 20% N (tỷ lệ N-P:1-2,5) trong phân thích hợp cho loại đất như vậy với lúa năng suất trung bình.

– Sự không có mặt gốc sunfat không độc hại do mặn sunfat và H2S trên đất vốn giàu ion sunfat này. Tuy nhiên trên loại đất này sử dụng phân lân nung chảy kết hợp với ure tỷ lệ 1,5 -1 cho lúa năng suất cao có lẽ lợi hơn vì hỗn hợp này còn khử chua và cố định sắt nhôm di động, giảm bớt độc và xúc tiến sự phân giải hữu cơ cung cấp thêm đạm. Nếu đất trồng trọt lâu ngày, tỷ lệ mùn và N đã suy giảm, dùng DAP cần bổ sung thêm cho đủ đạm. Trong trường hợp này dùng ure kết hợp với supe lân hay lân nung chảy chi phí sử dụng phân bón sẽ ít hơn.

Giới thiệu các loại phân lân

* Phân lân chế biến bằng axit

– Supe lân:

+ Loại thông thường: 16 – 24% P2O5 tan trong amon xitrat 2%; 8-12%S; 28% CaO

Thể tích riêng: viên 107 – 124 dm3/100 kg phân bột 106 -122dm3/100 kg

+ Loại giàu: 25 – 36 % P2O5 tan trong amon 2 % xitrat 6 – 8% S; 20 % CaO

+ Loại rất giàu: 36 – 38% P2O5 tan trong amon xitrat 2 %; 15% CaO lưu huỳnh không đáng kể.

Thể tích riêng: viên 105 – 120 dm3/100 g

– Phân Metaphotphat canxi: 64 – 70% P2O5 tan trong amon xitrat 2 %

– Metaphotphat kali: 40 – 60% P2O5 tan trong amon xitrat 2%

– Phân lân kết tủa: 28 – 42% P2O5 tan trong xitrat amon 21%

– Phân DAP: 18 – 20% N; 46 – 50 % P2O5 tan trong amon xitrat 2%

Thể tích riêng 90 – 110 dm3/ 100 kg.

* Phân lân chế biến bằng quy trình nhiệt

Phân lân nung chảy Văn Điển                                    

+ Loại giàu: 20% P2O5 tan trong axit xitric 2%; 15% MgO; 32% CaO & SiO2: 24%; Thể tích riêng 67 – 71 dm3/100kg.

+ Loại trung bình: 17,5 – 18,5 % tan trong axit xitric 2%; 30 – 36% CaO; 15 – 17 % MgO; 24 – 30% SiO

Thể tích riêng 67 – 70 % dm3/100 kg

+ Loại thấp: 15 % tan trong axit xitric; 28 – 32 % CaO; 17 – 20% MgO    ; 24 – 30% SiO2.

– Photphan: 34% tổng số 26 % tan trong amon xitrat

– Photphat khử fluo

+ Loại giàu: 30 – 32% P2O5

+ Loại trung bình: 26 % tan trong amon xitrat

– Photphat cứt sắt: 14 – 22 % P2O5 tổng số; 10,5 -20% P2O5 tan trong axit xitric 2%

* Các loại quặng tự nhiên chứa lân

– Photphorit thành phần rất thay đổi theo mỏ: 10 – 31% P2O5 tổng số.               

– Apatit Lào Cai                                                              

+ Loại trung bình 23 – 31 % P2O5 tổng số

+ Loại nghèo < 23% P2O5 tổng số

Sưu tầm và biên tập Ks Lê Minh Giang

Bài 2: Phân Lân Và Sự Phân Loại Lân

PHÂN LÂN VÀ SỰ PHÂN LOẠI LÂN:

Sự phân loại lân dựa theo độ hòa tan của chúng:

1/ Phân lân hòa tan trong nước: supe lân (SP), điamôn photphat (DAP)

2/ Phân lân ít hòa tan trong nước, chỉ hòa tan trong axit yếu như axit xitric 2 % axit foomic hay xitrat amôn, phân lân nung chảy TP, photphat cứt sắt (còn gọi là Toomat sowlac), photphan, phân lân kết tủa (dicanxi phôtphat) và phân lân chậm tan (phân lân axit hóa một phần).

3/ Phân lân khó tan. Đó là các loại quặng tự nhiên khai từ mỏ lên đem nghiền để bón trực tiếp như apatit, photphorit, bột xương động vật…

Người ta còn phân loại theo quá trình chế biến:

1/ Phân lân tự nhiên: là sản phẩm khai thác từ các mỏ, nghiền bột đem sử dụng, không qua quá trình chế biến. Phần lớn phân lân tự nhiên là phân khó hòa tan: apatit photphorit, vivianit.

2/ Phân lân chế biến bằng axit. Có hai loại:

 – Hòa tan trong nước: supe lân, điamôn photphat.

 – Hòa tan trong axit yếu: phân lân kết tủa, phân lân chậm tan.

3/ Phân lân sử dụng nhiệt năng để chuyển hóa: Các loại phân lân nung chảy và phân lân cứt sắt.

1. Các loại phân lân điều chế bằng axit.

1

.1. 

Supe lân.

Supe lân là loại phân lân được sản xuất bằng cách cho tác động axit sunfuric với apatit. Lượng axit được tính toán thế nào để chuyển hết apatit thành canxi photphat. Trên thị trường có 3 loại supe lân:

– Loại supe lân thông thường: Loại này điều chế bằng cách cho tác động photphat tự nhiên với axit sunfuric, tạo thành monocanxi photphat và thạch cao. Tỷ lệ thạch cao chiếm 50%. Tùy theo hàm lượng lân trong quặng apatit mà tỷ lệ lân trong phân thay đổi từ 16 – 24 % P2O5 tan trong a môn xitrat trong đó có đến 90 % tan trong nước, ngoài ra có từ 8 – 12 % và khoảng 28 % CaO ở dạng CaSO4, một ít vi lượng như Fe, Zn, Mn, Bo, Mo.

– Loại supe lân giàu: là loại supe lân điều chế từ apatit tác động bởi hỗn hợp axit sunfuric và photphoric. Tùy theo tỷ lệ giữa axit sunfuric và axit photphoric mà có chứa 25 – 35 % P2O5 hòa tan trong a môn xitrat. Lượng CaSO4 còn lại ít hơn trong supe lân, chứa từ 6 – 8% S và khoảng 20 % CaO..

– Loại supe lân rất giàu: Được sản xuất bằng cách cho tác động axit photphoric với apatit có chứa từ 36 -38% P2O5 tan trong amôn xitrat.

Trong quặng apatit có chứa Fe, Al và các vi lượng nhiều ít tùy quặng. Axit sunfuric cũng kết hợp với Fe, Al tạo thành sufat sắt hay sunfat nhôm.

Trước đây người ta cho rằng lân tan trong nước càng nhiều chất lượng supe lân càng cao nên sản xuất supe lân thường dùng thừa một ít axit tạo thành axit photphoric, để cho trong khi cất trữ supe lân, lân hòa tan trong nước không chuyển ngược lại thành lân ít hòa tan. Vì vậy, supe lân thường chua. Lượng axit càng cao, supe lân càng dễ hút ẩm, ướt nhão. Thông thường tỷ lệ axit trong phân không nên quá 5% và độ ẩm dưới 13%. Từ khi người ta nhận thấy rằng không nhất thiết lân phải hòa tan trong nước nhiều cây mới dễ sử dụng, các nhà sản xuất phân supe lân giảm bớt số axit sử dụng, phân có chứa hai canxi phôtphat nhiều hơn, phân không chua ít hút ẩm và tơi rời hơn.

Tùy theo nguyên liệu sử dụng mà supe lân có màu xám trắng hay xám xẫm. Trên thị trường thường trình bày dưới hai dạng: Dạng supe lân bột và dạng supe lân viên. Do lân trong supe lân dễ hòa tan, khi bón vào đất dễ bị các nhân tố trong đất chuyển thành dạng cây khó sử dụng. Việc phân supe lân vò thành viên nhằm giảm hiện tượng này làm cho hiệu quả supe lân cao hơn.

Như vậy hai mặt mạnh của supe lân là:

– Dễ hòa tan, hiệu quả nhanh hơn các loại phân lân khác.

– Có chứa S.

Mặt mạnh thứ hai gần đây mới bắt đầu nhận thức hết. Nếu liên tục bón nhiều phân đã bị tẩy bớt lưu huỳnh như loại supe lân rất giàu điều chế từ axit photphoric trong nhiều năm thì sự thiếu S ngày càng thể hiện rõ nét. Trong tương lai S được xem là yếu tố phân bón thì supe lân nên được xem là loại phân có hai yếu tố.

Vì hàm lượng lân trong supe lân và hàm lượng S trong phân thay đổi rất lớn tùy theo chất lượng quặng và qui trình sản xuất nên phân lân trên thị trường cần được ghi ít nhất hàm lượng của lân hòa tan trong a môn xitrat và hàm lượng S tổng số. Ghi rõ hàm lượng CaO và các vi lượng khác của phân là điều nên làm.

Trên thương trường còn có loại phân supe được sản xuất từ axit xitric, hoặc hỗn hợp axit xitric và axit sunfuric. Sản phẩm là các nitrophotphat có hàm lượng N và P2O5 khác nhau. Tùy theo tỷ lệ giữa N và P mà nó được sư dụng như phân lân hay phân đạm (sẽ trình bày ở dạng phân phức).

Nhà máy supe lân Lâm Thao Vĩnh Phú và nhà máy supe lân Long Thành chủ yếu sản xuất phân supe lân. Supe lân Lâm Thao có chứa 16,5% P2O5 tan trong xitrat amôn 11,2%,  22-23% CaO và có chứa ít hơn 4 % axit sự do.

Vì nước ta, diện tích trồng lúa rất lớn, sản xuất phân lân chủ yếu là để bón cho lúa nên cả hai nhà máy supe lân Lâm Thao và Long Thành đều chưa trang bị dây chuyền để sản xuất supe lân viên. Chắc rằng sản xuất phân viên sau này sẽ được chú ý, vì trên đất laterit chua, hiệu quả của phân viên sẽ cao hơn và bền hơn phân bột rất nhiều.

Supe lân là loại phân rất quý cho đất trung tính, đất cacbonat và đất cà giang (đất kiềm do nhiều natri). Bón supe lân vào các loại đất này, lân cũng bị hấp phụ giữ lại do chuyển thành các dạng hợp chất lân giàu canxi, ít hòa tan hơn. Nhưng các hợp chất này về sau vẫn tiếp tục được cây sử dụng. Ở các loại đất có độ chua cao, nhiều sắt di động như đất chua, đất phèn, đất đồi laterit chua, đất trũng lầy thụt, supe lân dễ bị hấp phụ và giữ chặt trên keo đất hoặc chuyển thành các photphat Fe, Al. Lân bị giữ chặt theo kiểu này cây không còn sử dụng được nữa. Nhiều thí nghiệm trên đất đồi trồng hoa màu chua hiệu lực vụ sau của supe lân rất thấp còn trên đất phèn, nhất là sau khi đất bị xì phèn hiệu lực còn lại không còn gì nữa.

Sản xuất các loại supe lân viên hay các loại phân lân axit hóa một phần (dùng lượng axit ít hơn quy trình thông thường) cần được xem xét đến, vì hiệu quả phân sẽ cao hơn.

Trộn thêm các loại vi lượng vào supe lân rất có ích, vừa cung cấp thêm vi lượng hữu hiệu cho cây vừa làm tăng hiệu lực supe lân. Các vi lượng thường được chú ý là bo, molipđen, kẽm và mangan. Super lân dùng bón cho cây họ đậu nên chú ý trộn thêm magiê, mangan, molypđen và bo cho vùng trồng lúa nên chú ý đến kẽm và đồng. Những nhận xét đầu tiên của trung tâm nông nghiệp Đồng Tháp Mười cho thấy trên đất phèn nên chú ý trộn thêm bo. Nhà máy super lân Long Thành đã trộn thêm bột đá xà vân để có loại super lân M chứa 17% P2O5 tổng số, 14,2% P2O5 tan trong amôn xitrat và 3% MgO và lượng axit còn lại 1%.

Trong thành phần super lân có canxi sunfat. Ngoài tác dụng cung cấp S ra, canxi sunfat còn là chất để cải tạo đất kiềm do natri gây ra. Canxi trong CaSO4 đẩy Na ra khỏi keo đất và làm giảm độ kiềm của đất. Super lân có thể xem như là chất cải tạo đất kiềm có hiệu quả cao do tỷ lệ 50% CaSO4.

Trước đây do tính chất cải tạo kiềm này người ta lầm tưởng bón supe lân làm chua đất. Theo Gros nhiều thí nghiệm lâu năm chứng tỏ rằng ngay cả khi bón với liều lượng cao supe lân không ảnh hưởng đến độ chua của đất.

Phân supe lân phù hợp cho tất cả các loại đất, loại cây, có thể dùng để bón lót, lên mặt đất hoặc bón theo hàng theo hốc, có thể dùng để bón thúc, hòa nước để tưới và phun lên lá. Ở đất chua, hiệu lực supe lân có thể được tăng cường nếu đất được bón vôi.

Nông dân miền Bắc đã quen với tập quán ủ phân chuồng có thêm supe lân. Cách làm này làm cho hiệu lực phân lân tăng và làm giảm sự mất đạm khi ủ phân. (Còn nữa)

Sưu tầm và biên tập – Ks Lê Minh Giang

Cẩm Nang Phân Lân: Kỹ Thuật Sử Sụng Phân Lân

Ngày đăng : 04/06/2019 – 8:36 AM

1. Chọn dạng phân bón Để phát huy hiệu quả của phân lân đối với cây trồng, trước khi sử dụng phân lân chúng ta cần lựa chọn những loại phân lân phù hợp dựa trên các cơ sở sau:

– Căn cứ vào pH đất: + Supe lân nên bón trên đất trung tính, khi bón supe lân trên đất chua, trước đó phải bón vôi để trung hòa độ chua đến pH=6,5 thì phân này mới phát huy hết hiệu quả.

+ Phân lân thiên nhiên, phân lân nung chảy bón cho đất chua, đất bạc màu, đất trũng, đất lầy thụt.

– Căn cứ các yếu tố dinh dưỡng đi kèm trong phân lân: Cũng có vai trò quan trọng để nâng cao hiệu quả của phân bón. Nhiều trường hợp dạng phân bón này tỏ ra tốt hơn dạng phân bón kia là do yếu tố dinh dưỡng đi kèm.

+ Supe lân do có chứa S nên thể hiện tính ưu việt với các cây có nhu cầu S cao.

+ Phân lân nung chảy nhờ có Mg, SiO2, nên thể hiện tính ưu việt rất rõ trên đất thoái hóa rửa trôi mạnh hay khi bón cho các cây trồng có nhu cầu về các chất này cao.

Tuy nhiên, sự phối hợp nhiều loại phân lân trong sử dụng thường cho hiệu quả hơn. Do mỗi dạng phân lân đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định sự phối hợp chúng trong sử dụng sẽ phát huy được những ưu điểm, khắc phục được nhược điểm của từng dạng phân, tạo nên hiệu quả sử dụng phân bón chung tốt hơn.

2. Vai trò của dạm đối với hiệu quả của việc bón lân Phân lân chỉ phát huy tác dụng khi đất có đủ đạm hay được bón cân đối với phân đạm theo yêu cầu của cây. Trong trồng trọt nếu chưa có khả năng tăng được lượng phân N bón thì chưa tăng lượng phân bón vì sẽ không đem lại hiệu quả.

3. Thời kỳ bón phân lân – Đối với hầu hết tất cả các loại cây trồng ở thời kỳ đầu sinh trưởng (thời kỳ cây con) rất cần lân để ra rễ và nếu thiếu lân ở thời kỳ này sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng lân. Hơn nữa lân được tích lũy vào trong cây ở giai đoạn sinh trưởng trước có thể chuyển hóa để tái sử dụng cho giai đoạn sau khi trong đất thiếu.

– Vì vậy, cần chú ý bón phân lân đủ cho cây trồng ngay từ đầu đối với tất cả các loại cây trồng. Bất cứ loại phân nào, cũng lấy bón lót là chính.

– Việc bón thúc phân lân có thể cần thiết khi cây trồng có biểu hiện thiếu lân, hay vì lý do nào đó nào đó chưa bón lót toàn bộ lượng phân lân cần bón. Riêng trong sản xuất hạt giống, rất cần bón thúc phân lân trước thời kỳ hình thành hạt nhằm làm tăng tỷ lệ lân trong hạt giống, làm tăng sức nảy mầm và các chất lượng khác cho hạt giống. Việc bón thúc phân lân chỉ đạt hiệu quả khi bón bằng phân supe lân.

4. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phân lân Để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phân lân khi sử dụng chúng ta cần chú ý những điểm sau:

– Bón phân lân vào thời kỳ cây có nhu cầu lân cao (vườn ươm, ruộng mạ, lúc mới trồng cây trồng).

– Bón phân lân càng gần rễ cây càng tốt, bón cho cây trồng cạn thường bón theo hàng theo hốc.

– Bón phân lân kết hợp với phân chuồng, theo tỷ lệ so với phân chuồng, 2% đối với supe lân, 3 – 5% đối với photphorit.

– Phối hợp supe lân các loại lân khác trong sử dụng.

– Bón phân lân theo đất: Đất chua nghèo lân dùng phân lân thiên nhiên; đất bạc màu, đất nhẹ nghèo Mg dùng phân lân nung chảy. Đất kiềm, trung tính dùng phân supe lân.

– Bón phân lân theo cây: Ưu tiên bón phân lân cho các cây có nhu cầu lân cao, cây trồng cạn đặc biệt là các cây ngắn ngày nên bón supe lân, lúa nên bón phân lân nung chảy hay phân lân thiên nhiên, cây bộ đậu và phân xanh nên dùng phân lân thiên nhiên.

– Chỉ supe lân mới có thể được dùng để bón thúc còn các loại phân lân khác chỉ dùng bón lót.

5. Có thể bón phân lân cải tạo và bón lân duy trì – Bón phân cải tạo: Là bón lượng lân lớn hơn nhiều so với nhu cầu của cây nhằm làm tăng hàm lượng lân có trong đất đến một mức thỏa đáng tạo khả năng để đất cung cấp lân tốt cho cây và thường làm đối với đất nghèo lân.

– Bón phân duy trì: Là bón lượng phân vừa đủ bù đắp lượng phân mà cây trồng lấy đi hằng năm, để ổn định lượng lân có trong đất.

– Trong thực tế người ta có thể bón tập trung lượng phân lân lớn của một số vụ cây trồng vào một lần bón cho cây trồng nào có nhu cầu lân cao nhất trong hệ thống luân canh để giảm chi phí vận chuyển và bón phân (tiện cho việc cơ giới hóa)(bón cải tạo).

– Tuy nhiên bón một lượng phân lân cải tạo lớn có thể dẫn đến việc cản trở hút các nguyên tố vi lượng đặc biệt là Zn ở cây (do bị cố định). Ngoài ra khi trong đất có nhiều sắt, nhôm ở dạng hòa tan và khoáng sét nếu bón lượng phân lân quá lớn vào đất chúng dễ chuyển thành dạng khó tiêu hiệu lực còn lại rất thấp gây lãng phí, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cây. Vì vậy cần bón phân đúng lúc và liên tục để tăng hàm lượng lân dễ tiêu trong đất khác.

Giới Thiệu Các Loại Nguyên Liệu Sản Xuất Phân Bón Npk: P2 Phân Lân

1. Supe Lân

Đặc tính của Supe lân trong sản xuất phân bón NPK

Ưu điểm: có tính axit và dễ tan trong nước, cây hấp thụ tức thời, có tính dẻo nên dễ ve viên tạo hạt.

Nhược điểm: Màu tối (xám) và hàm lượng lân thấp nên chủ yếu được sử dụng trong việc sản xuất phân NPK có hàm lượng thấp và trung bình (tổng NPK < 25%) và có màu tối (không sử dụng trong sản phẩm NPK có màu sắc sáng vì khó phối màu). Riêng Supe lân trắng Trung quốc có thể sử dụng trên dây chuyền tạo hạt 1 màu hàm lượng cao

Hàm lượng: P 2O 5 16-16,5%; S: 11%, Ca: 18 – 21%

Hình thức: Màu xanh xám

Hàm lượng: P 2O 5 16%; S: 6%, Ca: 20%

Hình thức: Màu xám

Hình thức: Màu trắng xám

Hàm lượng: P 2O 5 16-17%; S: 11 – 13%, Ca: 18 – 21%

Hình thức: Màu xám

2. Lân nung chảy

Hàm lượng: P 2O 5 15 – 16%; 18 – 22% CaO; 24 – 32% SiO2; 9 – 10% Mg

Đặc tính của lân nung chảy trong sản xuất NPK

Mẫu phân lân nung chảy

Ưu điểm: Lân nung chảy có tính kiềm (pH: 8 – 8,5), không tan trong nước (Chỉ tan trong axit nhẹ hoặc axit do dễ cây tiết ra), dễ tạo hạt, làm hạt cứng (nhân hạt) dễ sấy khô.

Nhược điểm: Màu tối (đen, xám đen) và hàm lượng lân thấp nên chủ yếu được sử dụng trong việc sản xuất phân NPK có hàm lượng thấp và trung bình (tổng NPK < 25%) và có màu tối (không sử dụng trong sản phẩm NPK có màu sắc sáng vì khó phối màu).

3. DAP (Di Amon phophat)

Đặc tính của DAP trong sản xuất phân bón NPK

Ưu điểm: DAP có hàm lượng lân cao (từ 44 – 45% P 2O 5hh) và có chứa cả Đạm (từ 10 – 16%N), hạt đẹp có tính dẻo nên được sử dụng nhiều trong phối trộn phân hỗn hợp (3 – 4 màu) hoặc nghiền để dùng tạo hạt phân bón có hàm lượng NPK cao.

Nhược điểm: Giá thành cao, phải nghiền (trừ sản phẩm DAP bột) nếu sản xuất phân bón công nghệ 1 hạt, trong sản phẩm chỉ có hàm lượng lân và đạm không chứa các nguyên tố khác như Canxi, Magie, lưu huỳnh, silic.

Hình thức hạt: hạt màu vàng nâu

Mục đích sử dụng: Nghiền ra sử dụng sản xuất phân công nghệ 1 hạt, hoặc để nguyên hạt trộn phân bón 3, 4 màu

Hình thức hạt: hạt màu nâu

Mục đích sử dụng: Để nguyên hạt trộn phân bón 3, 4 màu

Hình thức hạt: hạt màu xanh ngọc

Mục đích sử dụng: Màu xanh ngọc đẹp, sử dụng để trộn các sản phẩm NPK 3 màu hàm lượng cao như: NPK 20-20-15… Khi cần thiết có thể nghiền sản xuất phân bón công nghệ 1 hạt.

Hình thức sản phẩm: Tinh thể màu trắng, dễ hút ẩm

Mục đích sử dụng: Để sản xuất phân hỗn hợp NPK hàm lượng cao công nghệ 1 hạt

4. MAP (Mono amon phophat)

Đặc tính của MAP trong sản xuất phân bón NPK

Ưu điểm: MAP có hàm lượng lân cao (từ 40 – 50% P 2O 5hh) và có chứa cả Đạm (từ 8 – 10%N), dạng bột có tính dẻo nên được sử dụng nhiều trong tạo hạt phân bón có hàm lượng NPK cao.

Nhược điểm: Giá thành cao, trong sản phẩm chỉ có hàm lượng lân và đạm không chứa các nguyên tố khác như Canxi, Magie, lưu huỳnh, silic.

Hình thức sản phẩm: dạng bột màu trắng

Mục đích sử dụng: Để sản xuất phân hỗn hợp NPK hàm lượng cao công nghệ 1 hạt, công nghệ tháp cao

Hình thức sản phẩm: dạng bột màu trắng

Mục đích sử dụng: Để sản xuất phân hỗn hợp NPK hàm lượng cao công nghệ 1 hạt, phân bón công nghệ tháp cao

Hình thức sản phẩm: dạng bột tinh thể màu trắng

Mục đích sử dụng: Để sản xuất phân hỗn hợp NPK hàm lượng cao công nghệ 1 hạt, công nghệ tháp cao

Mời các bạn đón đọc: Giới thiệu các loại nguyên liệu sản xuất phân bón NPK: P3 Phân Kali

Bạn đang đọc nội dung bài viết Bài 2: Phân Lân Và Sự Phân Loại Lân (Tiếp Theo Và Hết) trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!