Đề Xuất 3/2023 # Bắc Sơn: Tăng Cường Ứng Dụng Kỹ Thuật Trong Sản Xuất Nông Nghiệp # Top 3 Like | Vitagrowthheight.com

Đề Xuất 3/2023 # Bắc Sơn: Tăng Cường Ứng Dụng Kỹ Thuật Trong Sản Xuất Nông Nghiệp # Top 3 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Bắc Sơn: Tăng Cường Ứng Dụng Kỹ Thuật Trong Sản Xuất Nông Nghiệp mới nhất trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

(LSO) – Từ năm 2017 đến nay, thông qua các nguồn vốn được hỗ trợ, nông dân huyện Bắc Sơn đã tích cực ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp. Từ đó, từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất.

Để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị cây quýt vàng, năm 2017, huyện đã tuyên truyền, vận động người dân trồng, chăm sóc quýt theo quy trình VietGAP. Nhờ đó, chất lượng quả ngày càng được nâng lên, năng suất đạt 18 tấn quả/ha, tăng từ 10 đến 15% so với trước.

Ông Đặng Văn Lương, thôn Hồng Phong 4, xã Chiến Thắng cho biết: Gia đình tôi có 800 cây quýt đang cho thu hoạch. Từ năm 2017, áp dụng quy trình VietGAP, trung bình mỗi cây quýt cho thu từ 50 đến 60 kg quả/cây, tăng 10 kg/cây so với trước. Đặc biệt, quả quýt tròn, đều, mẫu mã đẹp, vị ngọt hơn. Năm 2019, tôi thu được hơn 20 tấn quả, thu nhập gần 600 triệu đồng.

Công nhân Công ty TNHH Du lịch Việt, thị trấn Bắc Sơn chăm sóc cây chanh leo (mô hình sản xuất theo quy trình VietGAP)

Không chỉ riêng cây quýt, từ năm 2017 đến nay, từ nguồn vốn sự nghiệp chương trình nông thôn mới, huyện Bắc Sơn đã dành gần 1,3 tỷ đồng để hỗ trợ vật tư, phân bón, hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc các loại cây ăn quả theo quy trình VietGAP cho người dân. Hiện nay, toàn huyện có trên 200 ha cây ăn quả các loại được sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Trong đó, quýt (140 ha); bưởi (19,3 ha); lúa nếp cái hoa vàng (40 ha); chanh leo (5 ha)..

Ông Dương Đình Đường, Chủ tịch UBND xã Bắc Quỳnh cho biết: Từ năm 2018, người dân trong xã bắt đầu áp dụng quy trình VietGAP để sản xuất lúa nếp cái hoa vàng, qua đó năng suất cao hơn, cây hạn chế được sâu bệnh, chất lượng bông lúa tốt hơn. Năm 2019, sản phẩm nếp cái hoa vàng của xã đã được xếp hạng 4 sao cấp tỉnh (Chương trình mỗi xã một sản phẩm OCOP). Năm nay, từ nguồn vốn được hỗ trợ, xã sẽ hỗ trợ bà con bao bì sản phẩm, hoàn thiện khâu đóng gói để xuất bán ngoài thị trường.

Song song với việc áp dụng quy trình VietGAP trên các sản phẩm nông nghiệp, từ năm 2017, huyện đã hỗ trợ người dân xây dựng mô hình tưới nước tiết kiệm trên cây ăn quả có múi ở các xã: Đồng Ý, Chiến Thắng, Bắc Quỳnh, Tân Lập… Theo đó, với kinh phí gần 4,5 tỷ đồng (ngân sách Nhà nước và vốn đối ứng của người dân), huyện đã hỗ trợ được gần 70 mô hình tưới nước tiết kiệm cho hơn 100 hộ gia đình với quy mô ứng dụng trên 86 ha cây ăn quả có múi các loại.

Ông Vy Văn Can, thôn Hợp Thành, xã Đồng Ý phấn khởi: Tháng 5/2019, gia đình tôi được hỗ trợ mô hình tưới nước tiết kiệm để phục vụ quy mô tưới từ 0,8 đến 1 ha trồng bưởi. Tôi thấy mô hình tưới tiết kiệm rất hiệu quả, giúp giảm công lao động; cây trồng phát triển ổn định; năng suất cao hơn. Trên cơ sở mô hình được hỗ trợ, tôi đầu tư thêm hệ thống phun sương, máy áp lực, máy bơm nước… Từ đó hiệu quả được nhân lên rất nhiều. Từ khi có hệ thống tưới, tôi chỉ mất từ 2 đến 4 tiếng/1 lần tưới, trong khi so với trước đây tưới thủ công phải mất từ 1 đến 2 ngày. Cùng với đó, nhờ hệ thống tưới đều hơn, hiệu quả hơn, nên năng suất, chất lượng quả cũng được nâng lên rất nhiều. Năm 2019, tôi thu 1,6 vạn quả bưởi, trừ chi phí, thu nhập hơn  300 triệu đồng.

Ông Vi Đình Thiện, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Bắc Sơn cho biết: Trong những năm qua, phòng đã tham mưu cho UBND huyện hỗ trợ người dân ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp; phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh áp dụng khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi trâu, bò vỗ béo…; tạo điều kiện cho người dân các xã giao lưu học hỏi kinh nghiệm, tham quan các mô hình sản xuất hiệu quả. Đồng thời, hằng năm duy trì các lớp tập huấn hướng dẫn kỹ thuật, đào tạo nghề cho bà con. Thời gian tới, phòng tiếp tục tuyên truyền, vận động người dân ứng dụng khoa học kỹ thuật, mở rộng diện tích các loại cây trồng áp dụng VietGAP; tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp gắn kết, duy trì liên kết bao tiêu, đảm bảo đầu ra cho các sản phẩm nông sản của huyện.

Đẩy mạnh ứng dụng khoa học- kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp đã mang lại hiệu quả thiết thực cho người dân. Trong đó, quan trọng nhất là chất lượng các sản phẩm nông sản của huyện ngày càng được nâng lên. Nhờ đó, góp phần nâng cao thu nhập bình quân đầu người của huyện hiện nay lên 44 triệu đồng/người/năm, tăng 21 triệu đồng/người/năm so với năm 2015.

Ứng Dụng Công Nghệ Sinh Học Trong Sản Xuất Nông Nghiệp

Công nghệ sinh học là tập hợp các kỹ thuật khác nhau của các ngành khoa học về sự sống có khả năng khai thác và biến đổi các cơ thể sinh vật, các hợp phần của cơ thể sống và các quá trình sinh học nhằm tạo ra các sản phẩm đặc thù ở quy mô lớn. Công nghệ sinh học bao gồm: công nghệ tế bào và mô phôi; công nghệ enzym và proteinvv… Công nghệ sinh học đã mang lại những hiệu quả to lớn trong các lĩnh vực công nghiệp, y tế,… đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp bằng việc tạo ra các công nghệ mới, các phương pháp chữa bệnh mới, các sản phẩm mới mà các giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, vacxin vật nuôi,vv… đã được ra đời.

Ở Việt Nam, công nghệ sinh học hiện đại tuy mới phát triển song đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đầu tư. Trong nhiều năm qua, Nhà nước đã cho thực hiện 4 chương trình nghiên cứu công nghệ sinh học bao gồm: chương trình 52D; KC-08; KHCN-02; KC-04 và 1 chương trình Kỹ thuật-Kinh tế cấp Nhà nước. Cùng với các Chương trình cấp Nhà nước, các bộ chuyên ngành trong đó có Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng đầu tư nghiên cứu và xây dựng dự án phát triển một số lĩnh vực của Công nghệ sinh học chuyên ngành do vậy bước đầu đã thu được một số thành tựu đáng kể.

Hiện tại chúng ta đã làm chủ và tạo công nghệ nhân in vitro cho nhiều loại cây trồng nông, lâm nghiệp. Trong đó:

Về trồng trọt, đã hoàn chỉnh được quy trình công nghệ nuôi cấy bao phấn lúa, ngô phục vụ công tác tạo giống. Kỹ thuật cứu phôi cũng được áp dụng đối với một số loài mà hạt có sức sống kém hoặc khi tiến hành lai xa. Các nhà khoa học cũng đã hoàn thiện quy trình tái sinh cây có múi bằng phôi vô tính kết hợp với công nghệ vi ghép đỉnh sinh trưởng để nhân nhanh và tạo giống cam, quýt sạch bệnh.

Trong lâm nghiệp, đã nghiên cứu thành công phương pháp vi nhân giống bằng nuôi cấy mô phân sinh kết hợp với công nghệ nhân hom ở quy mô lớn cho một số loài cây lấy gỗ (bạch đàn, keo, hông, lát hoa).

Trong chăn nuôi, công nghệ cấy truyền phôi được áp dụng để tạo đàn bò giống hạt nhân và bò lai hướng sữa. Các nghiên cứu về cắt phôi, thụ tinh trong ống nghiệm cũng đã đạt được kết quả ban đầu.

Một số ứng dụng công nghệ sinh học thành công trong nông nghiệp

Nhiều chế phẩm thuốc bảo vệ thực vật sinh học được ứng dụng rộng rãi như NPV, V-Bt để trừ sâu khoang, sâu xanh hại rau, màu, bông, đay, thuốc lá. Chế phẩm vi khuẩn huỳnh quang ( Pseudomonas fluorescens) phòng trừ bệnh hại rễ cà phê, vải thiều, lạc.

Các chế phẩm bả diệt chuột Miroca, Biorat có hiệu lực phòng trừ chuột 80-90% do được sản xuất dựa trên cơ sở vi khuẩn gây bệnh chuyên tính Salmonella enteriditis Isachenco

Công nghệ sản xuất chế phẩm bả diệt chuột sinh học trên cơ sở vi khuẩn gây bệnh chuyên tính Salmonella enteriditis Isachenco có hiệu lực phòng trừ chuột 80-90% cũng đã được ứng dụng trong sản xuất. Đã sản xuất và sử dụng chế phẩm diệt chuột Miroca, Biorat.

Ngoài ra, nhiều kết quả nghiên cứu sử dụng nấm có ích diệt côn trùng đã đạt được kết quả tốt như: Metarhizium flovoviridae trừ mối, châu chấu hại mía (hiệu quả phòng trừ đạt 76%), Beauveria bassiana trừ sâu róm hại thông (hiệu quả phòng trừ đạt 93,6%), hay Beauveria bassiana và Metarhizium aníopliae phòng trừ sâu hại dừa đạt hiệu quả từ 56-97%; nấm đối kháng Trichoderma trừ bệnh khô vằn trên ngô đạt hiệu quả 45-50%, hạn chế bệnh lở cổ rễ đậu tương 51-58%. Hiện nay, các nhà khoa học đang hoàn thiện qui trình sử dụng nấm Exserohilum monoceras (nòi 85.1) để trừ cỏ lồng vực.

Trong lĩnh vực xử lý môi trường: đã ứng dụng thành công công nghệ Biogas để chuyển các chất thải hữu cơ thành khí đốt. Đã xử lý rác thải, than bùn… làm phân bón. Những nghiên cứu trong ứng dụng công nghệ vi sinh để xử lý nước thải, chuyển đổi sinh học các nguồn phụ, phế thải nông, lâm nghiệp cũng đang được tiến hành.

Sản xuất nấm ăn, nấm dược liệu bằng các phế, phụ liệu trong nông nghiệp-nông thôn như: cám, trấu, mùn cưa, bã mía, lõi ngô, rơm rạ… đã thu được nhiều kết quả, vừa tăng thu nhập, vừa giải quyết việc làm của ngườì dân.

Nhờ ứng dụng Công nghệ sinh học, thời gian qua chúng ta đã có thể sản xuất quy mô công nghiệp giống cây ăn quả có múi sạch bệnh và giống dứa Cayen chất lượng cao, năng lực sản xuất cây giống cây ăn quả có múi sạch bệnh trong cả nước tăng lên 600.000 cây/năm và với dứa nhân được 10 triệu chồi/năm. Trong chăn nuôi, ứng dụng Công nghệ sinh học để sản xuất tinh, phôi tươi và đông lạnh ở qui mô xí nghiệp nhỏ tự động hóa đã góp phần tăng nhanh số lượng đàn bò sữa cả nước (từ 29.500 con năm 1999 lên 85.000 con năm 2003) đồng thời năng suất sữa tăng (từ 3.150 kg/chu kỳ lên 3.600 kg/chu kỳ). Nhờ ứng dụng công nghệ vi sinh mà các vacxin như: vacxin tụ huyết trùng trâu bò, vacxin dịch tả vịt và Parovirus lợn; các loại phân bón vi sinh và phân hữu cơ sinh học cũng được phát triển.

Trong lâm nghiệp, Công nghệ sinh học đã cho phép sản xuất cây giống Bạch đàn, Keo bằng nuôi cấy mô để trồng trên 10.000 ha rừng và nhân giống vô tính cây Phi lao trong dung dịch.

Qua đấy cho thấy Công nghệ sinh học ứng dụng trong nông nghiệp ở Việt Nam là một lĩnh vực mới phát triển và đi sau rất nhiều nước kể cả một số nước ASEAN. Tuy nhiên, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Công nghệ sinh học luôn được đặt trong vị trí ưu tiên đầu tư, hứa hẹn một tương lai phát triển vững mạnh cho nền nông nghiệp đất nước.

Web: agroviet.gov.vn

Web: vista.gov.vn

Cần Tăng Cường Sự Liên Kết Trong Sản Xuất Và Tiêu Thụ Sản Phẩm Hoa Địa Lan Tả Phìn

Hiện tại, có khoảng 90% số hộ tại xã Tả Phìn, huyện Sa Pa trồng hoa địa lan với số lượng từ vài chục đến vài trăm chậu, thậm chí hàng nghìn chậu. Đây đang được coi là cây thoát nghèo, làm giàu của bà con nông dân nơi đây. Tuy nhiên, thực tế này cũng mang đến một lo ngại về vấn đề liên kết thị trường và tiêu thụ cho sản phẩm hoa địa lan Tả Phìn.

Xã Tả Phìn có trên 600 hộ, thì có tới hơn 500 hộ trồng hoa địa lan, bình quân mỗi hộ trồng 100 chậu, nhiều hộ trồng 1000 chậu trở lên. Những năm gần đây, hoa địa lan Tả Phìn rất được ưa thích vào dịp tết, nên mang laị nguồn thu khá cho bà con nhân dân, mặc dù người trồng địa lan ở Tả Phìn cũng gặp nhiều khó khăn do tình hình thời tiết diễn biến bất lợi. Mỗi năm xã Tả Phìn cung cấp cho thị trường khoảng 70% số lượng hoa địa lan của Sa Pa trong dịp tết Nguyên đán.

Tuy nhiên, có một vấn đề đáng lo ngại là việc tiêu thụ sản phẩm hoa địa lan chưa có sự liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, mà phải thông qua nhiều bước trung gian mới đến được với người tiêu dùng, nên hay bị ép giá, giá thành không được cao. Hiện tại trên địa bàn xã cũng thành lập được 1 hợp tác xã để thu gom và tiêu thụ, vừa đảm bảo giá cả, vừa giới thiệu quảng bá sản phẩm hoa địa lan Tả Phìn đến thị trường trong nước. Tuy nhiên quy mô của hợp tác xã còn nhỏ, mới chỉ bao tiêu được khoảng được trên 1000 chậu địa lan cho bà con nhân dân, số còn lại bà con vẫn phải bán cho các thương lái, hay tự mang đi bán tại các chợ trên địa bàn.

Địa lan đang là cây trồng chủ lực để xóa đói giảm nghèo của Tả Phìn. Nếu chính quyền và các ban ngành chức năng có sự quan tâm và đầu tư thích đáng, cùng với việc quảng bá sản phẩm, liên kết tiêu thụ cho loại cây trồng này,thì đây thực sự sẽ là nguồn lợi lớn và lâu dài về kinh tế, cùng với phát triển dịch vụ du lịch, giúp đông bào người Mông, người Dao Tả Phìn giảm nghèo bền vững.

Thu Hường – Minh Dũng

Lạm Dụng Phân Bón Hóa Học Và Thuốc Bảo Vệ Thực Vật Trong Sản Xuất Nông Nghiệp

Điện Biên

Điện Biên TV – Lạm dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật không những làm cho nông dân tăng chi phí mà còn hệ lụy đến sức khỏe của người tiêu dùng, làm ô nhiễm môi trường, không đảm bảo sự phát triển bền vững cho nền nông nghiệp.

Theo số liệu của Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam, nước ta có khoảng 26 triệu ha đất nông nghiệp, nhu cầu sử dụng phân bón trung bình mỗi năm khoảng trên 10 triệu tấn. Kết quả điều tra của Tổ chức Lương thực và nông nghiệp Liên hiệp quốc cho thấy, hiệu quả sử dụng phân bón ở Việt Nam chỉ đạt 45-50%.

Mỗi vụ lúa, trung bình người nông dân phun thuốc bảo vệ thực vật từ 5 đến 7 lần

Số lượng phân bón bị rửa trôi mà cây không hấp thụ được chính là một trong những nguồn gây ô nhiễm đất. Một số loại phân bón có tồn dư axít làm chua đất, giảm năng suất cây trồng và tăng độc tố trong đất. Có một thực trạng nữa là việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đúng cách, đúng liều lượng, sử dụng loại thuốc có độ độc cao đã bị cấm sử dụng trong sản xuất nông nghiệp, đang làm phát sinh khoảng 9.000 tấn chất thải nguy hại ảnh hưởng đến môi trường. Thực trạng sử dụng phân bón hóa học và thuốc BVTV không đúng, vừa làm tăng chi phí sản xuất, vừa ảnh hưởng đến môi trường và dẫn tới nguy cơ mất an toàn vệ sinh thực phẩm.

Những cánh đồng lúa của huyện Điện Biên là nơi người nông dân thường xuyên dùng thuốc thuốc bảo vệ thực vật trong mỗi mùa vụ. Thuốc bảo vệ thực vật được phun phòng chống sâu bệnh trên đồng ruộng ở nhiều thời điểm khác nhau: Phun trừ cỏ trước khi cấy lúa; phun phòng chống sâu bệnh hại khi lúa mới cấy khoảng 15 – 20 ngày, phun thuốc khi lúa trổ đòng, khi lúa phơi màu và phun thuốc bảo vệ khi bông lúa uốn câu.

Người ta còn phun trừ rầy nâu trước khi gặt khoảng 1 tuần. Mỗi vụ lúa, trung bình người nông dân phun thuốc bảo vệ thực vật từ 5 đến 7 lần. Không hiểu nhiều về phản ứng của các chất hóa học độc hại, nhiều hộ gia đình còn tự mua các loại thuốc khác nhau, pha chế vào cùng một bình để phun phòng trừ sâu bệnh cho lúa.

Thanh Luông cũng là xã trồng nhiều rau màu. Có nhiều khu vực chuyên canh trồng rau. Rau màu là loại cây trồng ngắn ngày, một năm người nông dân có thể trồng nhiều vụ. Để tăng vụ và kích thích quá trình sinh trưởng, phát triển của cây rau, bà con nông dân thường sử dụng các loại phân bón hóa học. Hầu như họ không chú ý tới sự thoái hóa của đất đai cũng như việc bảo vệ đất cho sản xuất lâu dài.

Ở tỉnh Điện Biên do địa hình, địa chất chia làm các khu vực đất đai có tính chất khác nhau. Mỗi loại đất đều chứa đựng trong đó các nguyên tố hóa học cần thiết cho đời sống cây trồng. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, một gram đất bất kỳ nào cũng đều chứa ít nhất trên 30 nguyên tố hóa học. Bà con nông dân muốn canh tác lâu dài, bền vững, cần bổ sung các khoáng chất cho đất. Trong quá trình canh tác, không chú ý tới điều này sẽ làm cho đất nghèo dinh dưỡng, cây mất sức đề kháng, sâu bệnh hoành hành dẫn đến mùa màng bị ảnh hưởng.

Sử dụng phân hữu cơ và bón phân cho cân đối là biện pháp tốt nhất để bổ sung dưỡng chất cho đất. Tuy nhiên hiện nay, tình trạng bà con nông dân lạm dụng phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, thuốc tăng trưởng cho cây trồng đang khá phổ biến. Tình trạng này, đã và đang làm thoái hóa đất, cạn kiệt dinh dưỡng và làm biến đổi tính chất vật lý của đất. Các nghiên cứu cho thấy, nếu chúng ta bón dư đạm vào đất dẫn đến đất bị giảm nguyên tố đồng. Nếu bón dư lân dẫn đến thiếu kẽm. Nếu bón dư Kali sẽ bị đồng hóa Magie và Bo. Nếu bón dư vôi thì dẫn đến tình trạng giảm sắt và Mangan làm cây mất đề kháng, ô nhiễm đất và nước. Sử dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật còn gây ra những tác động không tốt đối với sâu bệnh hại mùa màng.   Yêu cầu phát triển nông nghiệp hiện nay là xây dựng môt nền nông nghiệp sạch, phát triển bền vững. Để thực hiện được yêu cầu này, bà con nông dân cần phải nắm vững kỹ thuật canh tác và kiến thức về sản xuất sạch, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm và không gây ô nhiễm môi trường. Đây không chỉ là biện pháp nâng cao chất lượng nông sản, mà còn giúp bà con nông dân sản xuất được các sản phẩm nông nghiệp có thương hiệu, đem lại thu nhập cao. Vậy bà con phải sử dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật như thế nào cho đúng cách.

Sản xuất theo hướng an toàn, xanh, sạch, bảo vệ tính cân bằng của đất là điều mà bà con nông dân cần hướng đến

Sản xuất theo hướng an toàn, xanh, sạch, bảo vệ tính cân bằng của đất là điều mà bà con nông dân cần chú ý. Để bà con dễ nắm bắt, ngành nông nghiệp đã xây dựng nguyên tắc “4 đúng” trong sử dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật. Với phân bón hóa học, nguyên tắc 4 đúng là: Sử dụng đúng loại; đúng liều; đúng lúc và đúng cách. Đúng loại có nghĩa là bà con cần sử dụng đúng loại phân cho từng giai đoạn phát triển cây trồng yêu cầu và phù hợp với từng loại đất. Sử dụng phân bón đúng liều, đúng lượng, tỷ lệ các loại phân theo hướng dẫn của nhà sản xuất và tùy thời tiết, mùa vụ để quyết định bón lượng phân thích hợp. Bón phân đúng lúc là bón đúng thời điểm cây trồng yêu cầu. Còn bón đúng cách là bón phân sao cho cây trồng hấp thu hiệu quả nhất lượng dưỡng chất được cung cấp.

Nguyên tắc 4 đúng trong sử dụng thuốc bảo vệ thực vật là: Sử dụng đúng thuốc;  đúng nồng độ, liều lượng; phun thuốc đúng lúc và phun đúng cách. Việc sử dụng nguyên tắc 4 đúng trong chăm sóc, bảo vệ mùa màng, không chỉ giảm tối đa chi phí cho sản xuất, mà còn làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, và không gây ảnh hưởng đến môi trường. Đây cũng là yêu cầu sản xuất của một nền nông nghiệp sạch phát triển bền vững mà chúng ta đang hướng đến.                                                                             

Minh Giang  

Bạn đang đọc nội dung bài viết Bắc Sơn: Tăng Cường Ứng Dụng Kỹ Thuật Trong Sản Xuất Nông Nghiệp trên website Vitagrowthheight.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!